Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Bài giảng lễ an táng của Đức cha Giuse Nguyễn Tích Đức

Bài giảng của Đức cha Nguyễn Văn Hoà trong lễ an táng Đgm Giuse Nguyễn Tích Đức

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Những lời cầu nguyện và hi lễ chúng ta dâng lên trong thánh lễ hôm nay, là để cầu cho Đức cha Giuse, nguyên là vị mục tử của giáo phận Ban Mê Thuột, sớm đạt được cuộc sống vĩnh cửu, muôn đời hưởng nhan Thánh Chúa.
Nhưng Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe lại muốn nuôi dưỡng chính chúng ta, là những người còn đang sống ở trần thế, để tiến tới một cuộc sống tốt đẹp, sẵn sàng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, khi Chúa gọi chúng ta về cuộc sống đích thực, vĩnh cửu.
I. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã hé mở, mạc khải về sự sống lại và hạnh phúc được hưởng nhan Thánh Chúa. Trong bài đọc I, ta nghe ông Gióp nói: “Tôi biết… ngày tận thế, tôi sẽ từ bụi đất sống lại… Tôi sẽ thấy Chúa tôi. Chính tôi sẽ thấy Người, và mắt tôi sẽ nhìn Người, chứ không ai khác”.
Mỗi khi kéo chuông nhà thờ, ta thấy đàn chó tru lên, vì tai nó rất thính, không chịu nổi tiếng chuông kêu. Cũng thế, mắt con người không đủ sức nhìn thẳng vào mặt trời, vì độ sáng của mặt trời quá mạnh. Thời xưa Chúa phán với Môisê trên núi Sinai: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” (Xh 33, 20).
II. Ánh sáng cho ta hiểu phần nào về ánh sáng siêu việt của Thiên Chúa. Không ai đủ sức trông thấy Ngài trong sự cả sáng của Ngài. Khi chúng ta cầu nguyện cho Đức cha Giuse được hưởng nhan thánh Chúa là chúng ta xin Thiên Chúa mở mầu nhiệm của Ngài để Đức cha Giuse có đủ khả năng chiêm ngưỡng Ngài trực tiếp. Được hưởng nhan Chúa như thế đem lại một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời, vượt trên mọi hạnh phúc mà con người có thể thấy ở trần gian. Hơn nữa, cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời này sẽ bền vững mãi mãi không bao giờ mất được.
III. Nói đến sự sống, người ta thường nghĩ đến cuộc sống hiện tại ở đời này, với những niềm vui cùng với nhiều đau khổ. Một đàng thì người ta không muốn đau khổ, và muốn đẩy cái chết xa được chừng nào hay chừng đó. Đằng khác, nếu kéo dài mãi cuộc sống ở trần gian, với bệnh tật, tuổi cao sức yếu, thì lại không chịu nổi, và cũng chẳng có ai muốn như thế. Tóm lại, trong chúng ta có hai khuynh hướng trái ngược nhau: Một đàng chúng ta không muốn chết, những người thân cũng chẳng muốn chúng ta chết. Nhưng đàng khác, chúng ta cũng không muốn kéo dài cuộc sống này đến vô tận, vì nó sẽ trở thành một gánh nặng, một hình phạt.
IV. Tâm trí chúng ta như đứng trước ngã ba đường, thật lúng túng, không biết lựa chọn cách nào. Lời Chúa sẽ dẫn đường chỉ lối cho chúng ta:
a. Chúa Giêsu nói với môn đệ: “Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và không ai có thể lấy mất niềm vui ấy được” (Ga 16, 22).
b. Thánh Phaolô triển khai Lời Chúa và nói với chúng ta:
“Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ sống lại với Người” (2 Tm 2, 11).
“Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 2, 21).
c. Phụng vụ và các thánh giải thích thêm:
1. Lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời”.
Lời kinh Tiền Tụng I cầu cho các tín hữu qua đời nhắc nhở chúng ta: cuộc sống trần gian là tạm bợ. “Sinh ký tử quy”, sống gửi thác về. Bởi vậy, không nên bám víu vào những thực tại.
2. Thánh Ambrôsiô đã từng nói: “Không nên than khóc cái chết, vì đó là nguyên do cứu độ loài người”.
3. Thánh Têrêsa Giêsu coi cái chết như cánh cửa mở ra để được nhìn thấy Chúa: “Con nóng lòng được nhìn thấy Chúa, nên con muốn chết”.
4. Đối với Thánh Têrêsa Hài Đồng: Điều mà người ta thường gọi là sự chết, thì ngài gọi là một bước tới sự sống. Ngài nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào cõi sống”.
V. Nói về Thiên đàng, nơi Chúa hứa ban cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu, thánh Phaolô đã diễn tả như sau:
“Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2,9).
Hạnh phúc khi con người được hiệp thông với Thiên Chúa, đồng thời, cũng được hiệp thông với tất cả những người ở trong Đức Kitô thì vượt quá sự hiểu biết và mọi sự diễn tả của con người. Thánh Kinh thường nói với chúng ta về mầu nhiệm này bằng các hình ảnh: Sự sống, ánh sáng, sự bình an, tiệc cưới, rượu Nước Trời, Nhà Cha, thành Giêrusalem thiên quốc, thiên đàng, thấy Thiên Chúa. Và giáo lý thường dùng kiểu nói: sự sống đời đời, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu, cuộc sống ngàn thu…
VI. Cuộc sống đích thực và vĩnh cửu là cuộc sống mai sau, ở bên kia thế giới hiện tại mà chúng ta đang sống, nhưng lại liên quan mật thiết đến thế giới này. Có sống lương thiện, đạo đức ở đời này, thì mới được hưởng hạnh phúc đời sau.
VII. Chúa Giêsu dạy chúng ta những nhiệm vụ chính yếu đối với bản thân và đối với tha nhân. Ngài dạy chúng ta qua 8 mối Phúc Thật: không ham tiền bạc của cải, biết thương người, sống hiền lành nhẫn nhục, không gây thù oán, đi tìm sự thật và công lý, gieo rắc tinh thần bác ái, hòa thuận, kể cả khi bị bắt bớ về sự công chính, thì sẽ được Nước Trời làm phần thưởng.
Khi nói về cuộc phán xét chung, Ngài dạy ta: Hãy cho người đói ăn, người khát uống, người thiếu thốn có áo mặc, thăm người đau yếu, viếng người bị tù đày… và Ngài hứa đưa vào cõi sống ngàn thu.
Những công việc trên đây mà người ta thường gọi là công việc bác ái, được thực hiện không do một động cơ nào khác ngoài “tình yêu của Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5, 14).
Và khi thực hiện những công việc đó, người Kitô hữu không đặt mình cao hơn người khác, nhưng nhận rằng công việc này là do ân sủng, còn bản thân người thực hiện chỉ là đầy tớ vô dụng.
Riêng với Đức cha Giuse, tất cả cuộc đời linh mục và giám mục của Ngài là phục vụ giáo phận Ban Mê Thuột: 44 năm linh mục và 14 năm giám mục với nhiều công khó cho một giáo phận rộng lớn và đông đúc. Lại còn kiêm nhiệm vụ giáo sư Đại chủng viện Nha Trang.
Khoảng 20 năm qua, Đức cha lại bị chứng bệnh nan y. Đức cha nhận nhiệm vụ giám mục trong chính thời gian này. Trong tình trạng sức khỏe như vậy, hẳn Đức cha đã phải cố gắng vượt mức để có thể chu toàn nhiệm vụ. Đức cha đã vui lòng chấp nhận, luôn sống chung với bệnh trong tinh thần vui vẻ không một tiếng than vãn kêu ca. Dường như Đức cha đã tận dụng thời gian này để tiếp tục dâng hi sinh, làm việc tông đồ và cũng để dọn mình.
Trước đây ít ngày, khi tôi đến thăm, Đức cha đã tỏ cho thấy muốn thanh thỏa mọi công việc với mọi người như đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Riêng với tôi: “Đức cha Phaolô mà về Naza nghỉ hưu thì tôi cũng về đó”. Rồi ngài quay sang nói với cha Thiều (phó giám đốc tu hội Naza Thủ Đức, nơi chuyên trị bệnh y học cổ truyền và chăm sóc người cao tuổi): “Cha Thiều ơi, dọn phòng đi nhá. Hễ Đức cha Hòa về thì tôi cũng về”.
Thật tôi cũng không ngờ đây là trối cuối cùng của Ngài. Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin nói: “Đức cha Giuse về bên Chúa, cũng xin dọn chỗ cho giáo phận Ban Mê Thuột và cho tất cả chúng tôi nữa”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét