Thứ Sáu, 3 tháng 12, 2010

Việt Nam: nơi các trường học không có nhà vệ sinh

Integrated Regional Information Networks (IRIN), United Nations

Hà Nội-Đối với em Nguyễn Công Tuấn, 10 tuổi, một học sinh tiểu học ở Hà Nội, sử dụng cầu tiêu ở trường học là một kinh nghiệm đáng sợ.
Rác rưỡi và mùi hôi thúi đã làm em sợ không dám tới gần. Vì thế Tuấn chờ đợi cho tới khi em về tới nhà; một cách rất có lý, má của em đã lo ngại rằng, em Tuấn có thể mắc các bệnh đường tiểu.
Nhưng em Tuấn có thể được xem là một trong những người may mắn nhất – nhiều trường học ở Việt Nam, ngay cả ở thủ đô Hà Nội, cũng không có cầu tiêu.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (MoET) gần đây đã kiểm tra các phòng vệ sinh trong 11.200 trường học khắp nước. ông Lã Quý Đôn, vụ phó vụ công tác học sinh và sinh viên, đã cho biết:
“Vào khoảng 30% của các trường học đã được kiểm tra là không có nhà vệ sinh hay không có những nhà vệ sinh thích đáng.”  (tức là khoảng 3360 trường ở tình trạng nầy)
Một cuộc khảo sát riêng được tiến hành ở Hà Nội đã phát hiện ra rằng gần như tất cả 1400 trường học đã không có đủ các nhà vệ sinh, ông Nguyễn Như Hòa, phó phòng kế hoạch và tài chánh thuộc sở giáo dục của thành phố Hà Nội, đã cho biết thế.
Không Đạt Tiêu Chuẩn
Các qui định đòi hỏi rằng: phải có một chỗ đi cầu cho mỗi 100 học sinh, và có một vòi nước rửa tay cho mỗi 60 học sinh.
“Hiện nay có rất ít trường học ở Hà Nội đạt được các tiêu chuẩn đó,” ông Hòa nói. “Và nhiều trường học trong những huyện nằm ngoài Hà Nội không có một cầu tiêu nào hết.”
Trần Thu An, một nhân viên của chương trình vệ sinh làm việc cho Quỹ Phát Triển Giáo Dục Trẻ Em của Liên Hiệp Quốc, cho biết rằng: vấn đề các cơ sở vệ sinh hiếm khi nhận được sự quan tâm mà nó xứng đáng cần phải có.
Liên Hiệp Quốc, là một thành phần trong  chương trình vận động các trường học “thân thiện với trẻ em”, đã và đang tập trung vào việc xây dựng các nhà vệ sinh sao cho đúng tiêu chuẩn. Năm ngoái, (các nhân viên của) chương trinh nầy đã và đang làm việc với Bộ Giáo Dục và Đào tạo, đang giúp đỡ để thiết kế và xây dựng các nhà vệ sinh tốt hơn khắp toàn quốc.
Các Ưu Tiên
Một phần của vấn nạn là: có quá nhiều nhu cầu cấp bách khi nói đến giáo dục đến nổi mà vấn đề vệ sinh thường thường là điều cuối cùng được quan tâm xem xét. [1]
Hiện vào lúc nầy, ưu tiên của chính quyền là thay thế tất cả các lớp học tạm thời đang được sử dụng như các phòng học bằng các ngôi trường xây bằng bê tông để các trường nầy có thể chống chọi được với bảo và mưa, cô Thu An cho biết. Nhưng, khi các ngôi trường mới nầy được xây dựng, các nhà vệ sinh không được thiết kế trên các bản vẽ. [2]
Trách nhiệm cho việc xây cất các nhà vệ sinh (một phần nào đó) nằm trong tay của chính quyền địa phương, những nơi nầy thường thường thiếu tiền bạc hay thiếu sự quan tâm. Cô Thu An nói tiếp: vì vậy, cuối cùng, các nhà vệ sinh không được xây dựng.
Kết quả là các học sinh đang buộc phải dùng “các bụi rậm chung quanh các trường học”, cô Thu An cho biết. “Thật khó lòng mà tin được.” [3]
Trần Duy Tạo, vụ trưởng vụ Xây dựng cơ bản và thiết bị trường học thuộc bộ Giáo Dục và Đào tạo, nói rằng: vấn đề không phải luôn luôn là thiếu tiền bạc. Mặt bằng cũng là một đề tài (phải nói đến). Trong các khu vực đô thị giàu có, các trường học có thể có ngân quỹ nhưng không có đủ chỗ để xây thêm nhiều nhà vệ sinh. (trong khi đó) Các chính quyền vùng thôn quê thường có đất đai (rộng lớn) để xây dựng các nhà vệ sinh, nhưng lại không có tiền.
Vấn Đề Sức Khỏe
Chính quyền đang cố gắng chận đứng vấn nạn nầyông Lã Quý Đôn, vụ phó vụ công tác học sinh và sinh viên, cho biết.
Năm 2006, nhà nước đã tuyên bố rằng tất cả các nhà trẻ và các trường học sẽ có các nhà vệ sinh và tất cả các học sinh sẽ có nước sạch để dùng trước năm 2010.
Nhưng ông Đôn nói rằng tại tốc độ hiện nay của việc xây cất, chắc chắn rằng mục địch nầy sẽ không đạt được.
“Điều nầy gây ra một hiệu quả tiêu cực lên sức khỏe của các học sinh cũng như khả năng học hành của các em. Các học sinh có thể cố nín vì sợ các nhà vệ sinh dơ bẩn. Và ở nơi nào mà các trường học không có nhà vệ sinh, các học sinh phải đi tiểu và đi cầu ở một chỗ nào khác và điều nầy gây ra các vấn nạn về môi trường.” [4]
Trong trường hợp của em Tuấn, em không còn phải chờ đợi cho tới khi em về tới nhà (để đi tiểu hay đi cầu). Các bậc cha mẹ ở trường tiểu học Hà Nội đã rất bất mãn về chuyện các nhà vệ sinh quá dơ bẩn và quan tâm đến sức khỏe của con cái họ, vì thế cách đây một vài tháng, họ đã quyết định nhúng tay vào, và họ trả một lệ phí hàng tháng để thuê người đến chùi rữa dọn sạch phòng vệ sinh. [5]
Với việc mỗi gia đình đóng góp 50 cents mỗi tháng, em Tuấn và các bạn cùng lớp của em hiện giờ không còn sợ để đi vào nhà vệ sinh nữa.
Người dịch: Trần Hoàng

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009

Ảnh: Giờ giải lao may mắn cho cậu bé. Ngôi trường này ở Hà Nội có tiện nghi cho học sinh theo đúng quy cách. Nhiều trường học ở Việt Nam, thậm chí cả ở thủ đô, không có nhà vệ sinh  (Martha Ann Overland/IRIN)

VIETNAM: Where the schools have no loos

Lucky break for him. This school in Hanoi has proper facilities for students. Many schools in Vietnam, even in the capital, lack toilets
HANOI, 17 June 2009 (IRIN) - For Nguyen Cong Tuan, 10, a primary school student in Hanoi, using the toilets at school was a frightening experience.

The filth and stench made him afraid to go near them. So Tuan would wait until he got home; his mother rightly worried that he could develop urinary tract problems.

Yet Tuan could be considered one of the lucky ones - many schools in Vietnam, even in the capital, Hanoi, lack any toilets at all.

The Ministry of Education and Training (MoET) recently surveyed sanitation facilities in 11,200 schools across the country.

"About 30 percent of inspected schools had no toilets or inadequate toilets," says La Quy Don, deputy head of the ministry's student affairs department.

A separate survey conducted in Hanoi found that of 1,400 schools nearly all failed to have enough sanitation facilities, says Nguyen Nhu Hoa, deputy head of the office for planning and finance in the city's education department.

Failed standards

Regulations require one toilet for every 100 students and one tap for every 60 students.

"There are few schools in Hanoi that meet these standards," says Hoa. "And many schools in the outlying districts have no toilets at all."

Tran Thu An, a sanitation programme officer with the UN Children's Fund (UNICEF), says the issue of toilet facilities rarely gets the consideration it deserves.

The UN, as part of its "child-friendly" schools campaign in Vietnam, has been trying to focus on proper sanitation facilities. In the past year, it has been working with MoET, helping to design and build better toilet facilities across the country.

Priorities 

Part of the problem is that there are so many pressing needs when it comes to education that sanitation is often the last thing considered.

At the moment, the government's priority is to replace all the makeshift shelters that serve as classrooms with concrete schools that can withstand monsoon winds and rains, says An. Yet when these new schools are built, toilets are not part of the plans.

The responsibility for building latrines lies in part with local authorities and communities, who often lack the funds or interest. So in the end, says An, toilets just do not get built. The result is that students are forced to use "the bushes surrounding the schools", she says. "It's hard to believe."

Tran Duy Tao, head of administration for the school infrastructure and equipment department at the education ministry, says it is not always a lack of money. Space is also an issue. In crowded, yet wealthier, urban areas, schools may have the funds but no room to build more toilets, he says. The rural authorities often have the land to build sanitation facilities but no money.

Health issues


The government is trying to tackle the problem, says Don, at MoET's student affairs department. In 2006, the government declared that all kindergartens and schools would have hygienic toilets and all children would have access to clean water by 2010.

But Don says at the current rate of construction, it is highly unlikely this goal will be met.

"This has a negative effect on students' health as well as their studying ability," says Don. "Students may try to hold it in due to their fear of dirty toilets. And where schools do not have toilets, students have to do it somewhere else and it causes environmental problems."

As for Tuan, he no longer has to wait until he gets home. Parents at the Hanoi elementary school were so upset over the dirty facilities and concerns for their children's health that a few months ago they decided to chip in and pay a monthly fee to have them cleaned.

For US50 cents a month per family, Tuan and his classmates are no longer afraid to go to the bathroom.

mo/ds/mw
Theme (s)ChildrenEducationHealth & NutritionUrban RiskWater & Sanitation,


Nguồn: http://www.irinnews.org/report.aspx?Reportid=84881

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2010

Vượt tường lửa

Nếu bạn không thể vào được những trang nào bị chặn thì hãy vào những trang dưới đây. Bạn sẽ thấy một khung trống để nhập địa chỉ trang web (thường có chữ Enter the url, Website url, hoặc Web Address ). Nhập địa chỉ cần vượt vào, sau đó Enter hoặc bấm nút bên phải khung đó (thường có chữ Surf, Go hoặc Browse ), lập tức trang web sẽ hiện ra. 



Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010

Các thánh tử đạo Việt Nam: Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt


Bài giảng của Đức cha Giuse Võ Đức Minh tại Đại hội Dân Chúa 24-11-2010
– Kn 3, 1-9: Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
– 2 Cr 4, 7-15: Chúng tôi luôn mang trong thân xác mình sự chết của  Đức Kitô.
– Ga 12, 24-26: Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt.
Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,
Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa tỏa lan sang các Kitô hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước, để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin giữa dòng đời.
“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình”. Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình”. “Trơ trọi một mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.
“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt”: Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hủy ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự hủy của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh họa cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.
“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô”.
Câu nói lừng danh này của Tertulianô năm xưa có giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam,  khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.
Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng, mà đỉnh cao của việc làm chứng là chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa, tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hóa với “của lễ toàn thiêu” như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và “của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, linh mục tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.
Thánh Tử Đạo Carolô Cornay Tân, một linh mục thừa sai Pháp, trả lời vị quan tòa thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua được?” [2]. Câu nói sau đây của Thánh linh mục tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý, nhưng linh  hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được” [3].
Bài học thứ hai là thái độ kiên định trong sứ vụ làm chứng cho sự thật.Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian, “để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc giẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.
Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé”[4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của mình, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương mà Chúa Giêsu đã đem đến thế gian: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm trước, tức vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với tâm tình tri ân, tại cuộc hội ngộ lịch sử này của Đại Hội Dân Chúa Việt Nam, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại, sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa”[5].
Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày của chúng ta [6].
Nguyện xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống với đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hóa, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới thực sự có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm bánh đó cho  mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã hội, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Bí Tích, nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của  SỨ VỤ” [8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. Amen.
––––––––––––––––
[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2.
[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1.
[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của Thánh ca Tin Mừng.
[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109.
[5] Xem Huấn từ ĐTC Bênêđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009.
[6] Xem Thư ĐTC Bênêđictô XVI gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.
[7] Xem TLLV, chương II.
[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Bênêđictô XVI.

Thứ Ba, 23 tháng 11, 2010

Hôm nay huy hoàng ngày mai tan hoang

Gm Vũ Duy Thống
Bài giảng tại Đại hội Dân Chúa ngày 23/11/2010
Lc 21, 5-11"Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào"

Trích đoạn TM hôm nay xem ra khó hiểu đối với các môn đệ năm xưa cũng như với thính giả thế kỷ 21. Cứ như là sét đánh ngang tai. Khi các môn đệ hí hửng trầm trồ trước vẻ huy hoàng tráng lệ của đến thờ, vốn là niềm tự hào của quốc gia và tôn giáo, tưởng được thầy mình đồng cảm vun vào, ai ngờ lại được thầy cho một bài học bất ngờ lắng đọng: hôm nay huy hoàng, ngày mai sẽ tan hoang; bây giờ Đền thờ có vươn cao vững bền đi nữa, thì nay mai cũng có ngày sụp đổ hoang tàn. Nghe mà lạnh người. Nhưng qua đó nói lên điều gì?

1-Trước hết, Chúa Giêsu muốn khắc họa một chân lý: mọi công trình vật thể đều bị chi phối bởi định luật của vật thể là hiện biến khôn lường. Những công trình ấy vừa nhờ vào bàn tay nắn nót của con người mà có, nhưng đồng thời cũng vượt thoát khỏi tầm tay níu giữ của con người. Bao nền văn hóa cực thịnh đã qua đi, bao nền văn minh sán lạn đã sụp đổ. Hễ đã có khởi đầu ắt sẽ có kết thúc; hễ đã có xuất phát tất phải có tận cùng. Chuyện bình thường như hoa nở hoa tàn. Nhưng không bình thường chút nào khi chuyện ấy lại xảy đến bất ngờ và chính mình cũng can dự vào. Đền thờ Giêrusalem, công trình vật thể tôn giáo Chúa Giêsu từ nhỏ đến lớn đã nhiều lần đến hành hương, cũng phải chịu chung một định luật là sự sụp đổ.

Trong hướng nhìn toàn cục, vũ trụ vật chất sẽ thay đổi để bước vào trời mới đất mới của TC. Qua sụp đổ tới vươn lên, qua đau khổ tới vinh quang, qua sự chết mới vào sự sống mới. Những tai họa cách này cách khác như lụt lội, động đất hoặc những tai nạn như rớt máy bay, tàn sát lẫn nhau, ngoài góc nhìn thời sự như một tai ương, cũng cần đặt trong hướng nhìn cánh chung để nhận ra chân lý này.

Trong bối cảnh những ngày cuối cùng của năm PV, chân lý Chúa Giêsu nêu lên còn giúp tín hữu nhận thức sâu sắc hơn: mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa là tồn tại; mọi sự là tương đối, chỉ có Chúa là Đấng tuyệt đối.

2- Không chỉ công bố chân lý, Chúa Giêsu còn muốn trang bị cho các môn đệ một thái độ sống phù hợp, thay vì dừng chân say mê trước vẻ đẹp của Đền thờ, hãy tiếp bước Người trên mọi nẻo hành trình sứ vụ; thay vì tuyệt đối hóa điều chỉ là tương đối, hãy gắn bó với Chúa mà tiến tới đích điểm vĩnh tồn; thay vì chỉ luẩn quẩn với những câu hỏi “khi nào và cách nào” để nhận biết điểm cuối của con người trong vũ trụ, hãy luôn sống tỉnh thức sẵn sàng (như lời xướng All).

Tỉnh thức sẵn sàng không là tiêu cực bó gối khoanh tay bất lực nhìn ngày Chúa đến, cũng không phải là băn khoăn lắng lo chống đỡ né tránh tiếng Chúa gọi mình, mà thực ra phải là tích cực xây dựng cuộc đời để ngày Chúa đến với mình cũng chính là ngày mình đã mong mỏi tìm đến với Chúa. Ngày của Chúa cũng chình là ngày làm nên bằng mọi ngày sống hôm nay.

Thánh GIUSE bổn mạng Giáo HộiChúa Giêsu mà ĐHDC kính mừng đặc biệt hôm nay vừa là một tấm gương vừa là một người mẫu sống tinh thần tỉnh thức một cách ứng trực. Tất cả mọi biến cố trong đời của Ngài bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu đều trải ra trong tinh thần ứng trực tỉnh thức sẵn sàng này, từ biến cố đón nhận Đức Maria đã có thai về làm bạn đời, qua biến cố Chúa Giêsu sinh ra trong hang đá, đến biến cố phải đem gia đình thánh trốn sang Ai Cập và sau này việc lạc mất Chúa Giêsu trong Đền thánh. Chắc chẳng phải vô tình mà Phúc Âm thường mô tả việc Thánh Giuse lắng nghe tiếng Chúa trong đêm và tỉnh dậy mau mắn thi hành ý Chúa, mà hữu ý trình bày mẫu gương của một con người luôn luôn tỉnh thức sẵn sàng tuân theo ý Chúa. Xin Thánh Giuse giúp từng người chúng ta và giúp Giáo Hội Việt Nam  cũng biết sống tinh thần tỉnh thức như Ngài.

3- Cuối cùng, Chúa Giêsu còn mở ra một lối sống phó thác cậy trông.Đại Hội Dân Chúa đã bước sang ngày thứ hai với những thuyết trình tham luận và phát biểu thật phong phú. Đã có những trầm trồ về tầm vóc lịch sử của Đại Hội 350 năm mới có một lần; đã có những xuýt xoa về nét đẹp sự kiện gặp gỡ của mọi thành phần dân Chúa trong 26 Giáo Phận Việt Nam; và cũng có những tiếc rẻ thời gian Đại Hội 3 ngày quá ít cho một định hướng canh tân Giáo Hội Việt Nam trong tương lai. Xét cho cùng, cũng chỉ là tâm tình tự nhiên rất thật giống như tâm tình của các môn đệ trước vẻ huy hoàng của Đền thờ.

Đại Hội Dân Chúa cũng như bất cứ Đại Hội nào rồi cũng sẽ kết thúc, nhưng điều sẽ không bao giờ kết thúc, đó chính là việc cầu nguyện trong tâm tình phó thác cậy trông. Xin cho Giáo Hội Việt Nam trở nên trong thực tế điều mình là trong lý tưởng, được nên dấu chỉ khả tín và nên khí cụ khả ái cho sự hiệp thông với Thiên Chúa cũng như với mọi thành phần khác của Giáo Hội và xã hội. Xin cho mọi thành viên Giáo Hội tùy theo bậc sống và điều kiện hiện tại biết luôn phấn đấu trở thành những nhà kiến tạo hiệp thông. Hiệp thông với Chúa, với nhau để có thể thực thi sứ vụ làm cho mọi người được hiệp thông trong cùng một sự sống của Thiên Chúa.

Đừng đòi hỏi Giáo Hội phải làm gì cho mình nhưng biết tự cật vấn mình đã làm được gì cho Giáo Hội. Đừng đứng bên ngoài hoặc bên trên Giáo Hội để phê bình chỉ trích, nhưng phải hơn hãy đứng trong Giáo Hội để nỗ lực yêu mến chung xây. Nếu Chúa Giêsu đã yêu Giáo Hội là hiền thê dù Giáo Hội còn đang cần thanh luyện, thì mỗi tín hữu cũng yêu mến Giáo Hội mẹ mình hết lòng, yêu bằng khả năng của khối óc bằng sức vóc của đôi tay và bằng mê say của tâm hồn. Thiết nghĩ đó là lối sống phó thác và cậy trông đích thực và tích cực, một mặt lắng sâu trong cầu nguyện và mặt khác nỗ lực dựng xây.

Hôm qua, khi đúc kết ngày làm việc, ĐC Tổng Thư Ký đã cô đọng lại trong chữ “thiết tha”: Thiết tha yêu mến Giáo Hội, thiết tha góp ý xây dựng Giáo Hội. Có những thiết tha vỡ thành nụ cười; cũng có những thiết tha đọng lại trong giọt nước mắt. Nhưng từ thiết tha đến dựng xây, từ lý tưởng tới hiện thực, khoảng cách vẫn còn đó. Xin cho Giáo Hội Việt Nam, nhờ lời cầu bầu của thánh Giuse, biết thu hẹp khoảng cách đó lại. Như vậy, lòng hẹn lòng, các đại biểu: trong khi chưa có Bộ mặt Giáo Hội mình mong muốn ưa thích, hãy bắt đầu xây dựng Giáo Hội bằng cách đón vào trong sự ưa thích của mình Giáo Hội mà mình đang có.

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2010

Đoan hứa sống khiết tịnh


Kính thưa Đại Hội Dân Chúa,

Chúng con, một số bạn trẻ, sau khi suy tư và nhận xét về các khủng hoảng, trong đó có khủng hoảng của đời sống trước hôn nhân và cả trong đời sống hôn nhân, cùng đi tới một nhận định:

Nguyên nhân sâu xa của các khủng hoảng là do các thứ chủ nghĩa duy vật vô thần, chủ nghĩa duy tương đối, chủ nghĩa duy khoái lạc và chủ nghĩa cá nhân.

Các phương tiện truyền thông lại vô tình và cố ý ủng hộ các chủ nghĩa nêu trên, khiến cho nhiều bạn trẻ trong chúng con quay lưng lại với thượng đế và buông xuôi theo các lời mời gọi của các thứ chủ nghĩa đó.

Hậu quả của cuộc sống không tin vào thần linh, ấy là:

+ Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân hoặc trước hôn nhân
+ Ngừa thai nhân tạo đủ các kiểu
+ Hút điều hòa kinh nguyệt, nạo phá thai.

Đây chỉ là ba hậu quả điển hình lan sang diện rộng ở nước Viêt Nam bắt nguồn từ việc nhiều bạn trẻ chúng con đánh mất cảm thức về tội lỗi.

Nay chúng con tuyên hứa:

1.     Giới trẻ chúng con luôn hướng về Chúa và vâng theo lệnh truyền của Chúa.

2.     Chúng con yêu mến Hội Thánh và vâng theo các lời dạy của Hội Thánh về Đức Khiết Tịnh trước hôn nhân.

3.     Chúng con sẽ tôn trọng người yêu của mình một cách toàn diện:Trọn thân xác, trọn tâm tư đều sẽ được trao trọn vẹn cho nhau đúng vào ngày thành hôn của chúng con.

4.     Chúng con hứa sẽ ý nhị nhưng kiên quyết từ chối mọi cám dỗ tình dục, dứt khoát nói không với các lời mời gọi đi ngược ý Chúa.

5.     Chúng con hứa sẽ cùng nhau thường xuyên cầu nguyện, đọc Lời Chúa, tìm hiểu xem chúng con đang sống như thế nào, phê phán cuộc sống của chính mình và người yêu của mình dưới ánh sáng của Lòng Tin, hợp tác với các đôi bạn khác trong các phong trào Bảo Vê Sự Sống, chống lại nền văn minh của sự chết.

6.     Chúng con sẽ tham gia học hỏi về nhân bản, về đạo đức Kitô Giáo. Và trước khi tổ chức đám cưới, chúng con sẽ cùng nhau đi Tĩnh Tâm hoặc Linh Thao.

7.     Dù mới chỉ là một trăm lời thề, chúng con cũng không nao núng trước hàng vạn lời mời chào cám dỗ chung quanh, bằng cách chúng con luôn chia sẻ thật thà với bố mẹ, với các Linh Mục và Tu Sĩ Linh Hướng, với các thầy cô giáo thân tín của mình mỗi khi chúng con bị nao núng dao động.

8.     Chúng con sẽ chia sẻ với bạn bè mình rằng:
+ Khiết tịnh không có hại cho sức khỏe
+ Khiết tịnh không phải là một thứ mốt hủ lậu
+ Khiết tịnh không làm mất người yêu.

9.     Chúng con xác tín với bạn của chúng con rằng: Khiết tịnh góp phần xây dựng Nước Chúa, nơi đây và lúc này ( here and now ) trong lòng dân tộc và quê hương Việt Nam thân yêu.

10.   Chúng con sẽ tận dụng Email, Mobile Phone, Telephone, Chat, Skype, Forum, Face Book, Blog... và rỉ tai, rủ rê bạn bè cho tới khi các bạn ấy cũng đạt được lời thề khiết tịnh trước hôn nhân và sẽ trình lên Đại Hội Dân Chúa.

Huế – Sàigòn – Hà Nội, mùa thu 2009

NHẮN NHAU:

Trang web này đã sẵn sàng dành cho giới trẻ chúng ta một góc mang tên “ĐOAN HỨA KHIẾT TỊNH”. Vậy bạn nào đồng lòng với tuyên ngôn nói trên, xin gửi một Mail về địa chỉ của admin: ttmvcssr@gmail.com với subject: ĐOAN HỨA KHIẾT TỊNH, cùng với tên Thánh ( nếu là Công Giáo ), họ tên, năm sinh,  thành phố và quốc gia bạn đang sống, cùng địa chỉ Mail của chính bạn ( mục đích để chúng ta có thể gửi đến nhau, những bạn đã ghi danh, những thông tin cần thiết và các chia sẻ có liên quan, chi tiết này sẽ được lưu giữ riêng, không nêu trên bảng ghi danh, tránh phiền phức ).
Hy vọng đến khi khai mạc Đại Hội Dân Chúa 2010, chúng ta sẽ có được thật nhiều lời đoan hứa để trình lên Chúa Giêsu và hiền thê của Người là Hội Thánh.

-------------------------------------------

Đã hơn 1 năm ( 29.9.2009 - 29.9.2010 ) kể từ khi lời tuyên ngôn của một số bạn trẻ được "trình làng", đã có khá đông bạn trẻ và một số người lớn tuổi, cả nam lẫn nữ, tại Việt Nam cũng như ở các nước, gửi Mail về ghi danh ĐOAN HỨA KHIẾT TỊNH...

509 BẠN GHI DANH ĐOAN HỨA KHIẾT TỊNH

(Hơn một năm, bắt đầu từ sáng ngày 29.9.2009
đến khuya ngày 13.11.2010 )

001. Anê Nguyễn Thu Thảo, 1977, Sàigòn, Việt Nam
002. Giuse Đinh Ngọc Nguyên Vỹ, 1981, Sàigòn, Việt Nam
003. Inede Nguyễn Thị Minh Tâm, 1988, Sàigòn, Việt Nam
004. Anna Têrêsa Nguyễn Thị Phan Hiền, 1984, Úc005. Maria Nguyễn Thị Tam Thanh, 1993, Pháp
006. Phêrô Uông Đình Duy Anh, 1986, Sàigòn, Việt Nam
007. Maria Goretti Lê Đặng Trâm Anh, 1986, Sàigòn, Việt Nam
008. Phêrô Trần Tử Ân, 1977, Sàigòn, Việt Nam009. Agatha Phạm Thị Ái, 1987, Sàigòn, Việt Nam
010. Maria Nguyễn Thị Kim Loan, 1980, Bến Tre, Việt Nam
011. Maria Phạm Thanh Thúy Vy, 1986, Sàigòn, Việt Nam
012. Anna Phin Sovalyna, 1986, Kuala Lumpur, Malaysia
013. Giuse Lê Văn Huyên, 1982, Sàigòn, Việt Nam
014. Phaolô Đinh Tiến Dũng, 1989, Việt Nam
015. Lê Xuân Viên, 1984, Hà Nội, Việt Nam
016. Giuse Trần Nguyễn Khánh, 1984, Việt Nam
017. Maria Goretti Đoàn Thùy Trang, 1984, Việt Nam
018. Têrêsa Nguyễn Ngọc Kim Nhung, 1982, Việt Nam
019. Trần Đình Văn, 1944, California, Hoa Kỳ
020. Phan Minh Quyền, 1986, Việt Nam
021. Martha Hoàng Thị Ngọc Lý, 1986, Sàigòn, Việt Nam
022. Maria Mađalêna Cao Hoàng Yến Vy, 1984, Sàigòn, Việt Nam
024. Đaminh Đinh Quang Minh, 1982, Sàigòn, Việt Nam
025. Maria Nguyễn Thị Thu Trang, 1985, California, Hoa Kỳ
026. Maria Trương Thị Mỹ Châu, 1987, Việt Nam
027. Giuse Phạm Trần Thái Sơn, 1987, Sàigòn, Việt Nam
028. Têrêsa Nguyễn Phạm Xuân Liễu, 1988, Việt Nam
029. Vinh Sơn Trần Nguyên Lãm, 1984, Việt Nam
030. Maria Đặng Thị Ngọc Trâm, 1985, Việt Nam
031. Thadeus Steven B. Smith Tú, 1981, Philippines
032. Gioan Baotixita Nguyễn Vũ Hiếu Nghĩa, 1986, Việt Nam
033. Phêrô Nguyễn Hồng Ân, 1981, Gò Vấp, Sàigòn, Việt Nam
034. Têrêsa Trịnh Thị Ngọc Lan, 1986, Gò Vấp, Sàigòn, Việt Nam
035. Têrêsa Nguyễn Mỹ Thiện, 1969, Việt Nam
036. Maria Chu Thị Thu, 1985, Hà Tây, Việt Nam
037. Trần Thị Huyền, 1982, Hà Nội, Việt Nam
038. Hoàng Thị Thiên Kim, 1984, Việt Nam
039. Giuse Trần Kim Bảo Phúc, 1982, Kontum, Việt Nam
040. Clara Anphong Hồ Thị Quỳnh Như, 1986, Long An, Việt Nam
041. Thân Khả Tú, 1987, Việt Nam
042. La Nguyễn Hoàng Vân, 1984, Việt Nam
043. GB. Khổng Đức Thắng, 1985, Biên Hòa, Việt Nam
044. Têrêsa Đinh Công Hoàng Anh, 1986, Biên Hòa, Việt Nam
045. Phaolô Huỳnh Đức Duy, 1985, Bến Tre, Việt Nam
046. Maria Trần Hồng Thảo, 1984, Việt Nam
047. Maria Đỗ Thị Hương Giang, 1983, Sàigòn, Việt Nam
048. Vinh Sơn Vũ Hữu Khương, 1983, Thái Bình, Việt Nam
049. Gioan Đỗ Minh Tuấn, 1987, Hà Nội, Việt Nam
050. Giuse Maria Vũ Tiến Thịnh, 1987, Sàigòn, Việt Nam
051. Giuse Nguyễn Kim Cương, 1988, Hà Nội, Việt Nam
052. Nguyễn Thị Kim Hồng, 1982, Phan Rang, Ninh Thuận, Việt Nam
053. Giuse Nguyễn Tùng Lâm, 1989, Hà Nội, Việt Nam
054. Đỗ Thị Hiền, 1984, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
055. Nguyễn Quốc Dũng, năm 1988, Gò Vấp, Sàigòn, Việt Nam
056. Têrêsa Nguyễn Đan Tâm, 1988, Việt Nam
059. Gioan Baotixita Cung Quốc Hùng, 1981, Sàigòn, Việt Nam
060. Christine Nguyễn Khánh Trân, 1973, Thủ Đức, Sàigòn, Việt Nam
061. Hồ Thái Hòa, 1984, Bình Thuận, Việt Nam
062. Scholastica Ng. Trần Quỳnh Như, 1975, Houston, Texas, Hoa Kỳ
063. Giuse Nguyễn Văn Hòa, 1987, Nam Định, Việt Nam
064. GB. Trần Anh Tuấn, 1987, Hà Tĩnh, Việt Nam
065. Uông Từ Ái, 1984, Sàigòn, Việt Nam
066. Maria Nguyễn Thị Trúc Khuyên, 1987,  Đồng Nai, Việt Nam067. Anna Nguyễn Thị Thiên Nga, 1985, Kontum, Việt Nam
068. Têrêsa Nguyễn Thị Thanh Tuyền, 1979, Sàigòn, Việt Nam
069. Trần Hữu Dũng, 1986, Sàigòn, Việt Nam
070. Maria Phạm Thị Anh Thi, 1990, Sàigòn, Việt Nam
071. Anna Lê Thị Ngọc Tuyết, 1962, q. 12, Sàigòn, Việt Nam
072. Maria Phan Thị Thanh Cẩm, 1984, Vũng Tàu, Việt Nam
073. Maria Nguyễn Thị Thiên Hương, 1988, Đồng Nai, Việt Nam
074. Têrêsa Long Liên, 1963, Sàigòn, Việt Nam
075. Maria Mađalêna Trần Thị Vĩnh Phúc, 1984, Vũng Tàu, Việt Nam
076. Anna Lê Thị Thu, 1967, Kampuchea
077. Giuse Nguyễn Thanh Quang, 1966, Sàigòn, Việt Nam
078. Gioan Baotixita Phạm Lương Hùng, 1973, Sàigòn, Việt Nam
079. Maria Nguyễn Thị Thanh Hòa, 1963, Sàigòn, Việt Nam
080. Gioan Nguyễn Quý Ly, 1976, Sàigòn, Việt Nam
081. Hoàng Thị Ngoan, 1983, Sàigòn, Việt Nam
082. Maria Vũ Thị Kim Ngân, 1979, Sàigòn, Việt Nam
083. Têrêsa Phạm Thị Bích Ngọc, 1991, Đồng Nai, Việt Nam
084. Têrêsa Nguyễn Thị Duy Trinh, 1988, Tân Bình, Sàigòn, Việt Nam
085. Huỳnh Bích Phụng, 1984, q. 7, Sàigòn, Việt Nam
086. Giuse Trần Hữu Nghiêm, 1986, Sàigòn, Việt Nam
087. Têrêsa Nguyễn Tất Hồng Yến, 1980, Việt Nam
088. Maria Nguyễn Thị Thu Yêm, 1975, Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam
089. Giuse Trần Thanh Tâm, 1995, Sàigòn, Việt Nam
090. Maria Nguyễn Thị Phương Dung, 1978, Sàigòn, Việt Nam
091. Anna Phạm Thị Ngọc Lan, 1985, Sàigòn, Việt Nam
092. Maria Vũ Thị Thanh Trang, 1986, Sàigòn, Việt Nam
093. Maria Nguyễn Thị Tuyết, 1948, Sàigòn, Việt Nam
094. Maria Trần Thị Nhung, 1966, Sàigòn, Việt Nam
095. Maria Ngô Lê Hoàng Diệu, 1990, Kontum, Việt Nam
096. Têrêsa Đoàn Thụy Nguyên Thảo, 1985, Sàigòn, Việt Nam
097. Maria Goretti Nguyễn Thị Mỹ Lệ, 1985, Sàigòn, Việt Nam
098. Giuse Nguyễn Ngọc Minh Tâm, 1980, Sàigòn, Việt Nam
099. Antôn Vũ Anh Đoán, 1966, Sàigòn, Việt Nam
100. Maria Võ Thị Lan Thảo, 1992, Sàigòn, Việt Nam
101. Maria Nguyễn Thị Lệ Dung, 1965, Sàigòn, Việt Nam
102. Têrêsa Lương Thiện Tâm, 1989, Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam
103. Maria Mai Thị Minh Trang, 1973, Sàigòn, Việt Nam
104. Giuse Nguyễn Minh Phúc, Sàigòn, Việt Nam,
105. Têrêsa Mai Thị Thu Vân, 1960, Sàigòn, Việt Nam
106. Bùi Minh Điền, 1988, Sàigòn, Việt Nam
107. Têrêsa Đặng Thị Kiều Dung, 1983, Sàigòn, Việt Nam
108. Maria Trần Thị Tuyết Hương, 1981, Sàigòn, Việt Nam
109. Martino Lê Quốc Huy, 1983, Sàigòn, Việt Nam
110. Maria Nguyễn Thị Hồi Hương, 1960, Sàigòn, Việt Nam
111. Simon Hoàng Hùng Anh, 1977, Sàigòn, Việt Nam
112. Maria Vũ Ngọc Bích Thảo, 1985, Đồng Nai, Việt Nam
113. Maria Nguyễn Thị Kim Lành, 1984, Sàigòn, Việt Nam
114. Vinh Sơn Lê Chí Cường, 1989, Sàigòn, Việt Nam
115. Têrêsa Bùi Thị Thanh Hiếu, 1965, Sàigòn, Việt Nam
116. Đaminh Đoàn Huy Hảo, 1990, Hóc Môn, Sàigòn, Việt Nam
117. Têrêsa Nguyễn Thị Xuân Tiên, 1979, Sàigòn, Việt Nam
118. Têrêsa Lù Thu Thanh, 1986, Sàigòn, Việt Nam
119. Lâm Duy Ngọc, 1989, Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam
120. Maria Nguyễn Thị Như Hà, 1972, Sàigòn, Việt Nam
121. Maria Giuse Nguyễn Thanh Tĩnh, 1963, Nghệ An, Việt Nam
122. Đaminh Trần Đức Duy, 1982, Lâm Đồng, Việt Nam
123. Maria Hoàng Thị Thu Thảo, 1985, Sàigòn, Việt Nam
124. Simon Nguyễn Hồng Long, 1955, Việt Nam
125. Têrêsa Nguyễn Thị Thùy Lan, 1990, Đăk Lắk, Việt Nam
126. Anna Trần Thị Xuân Lộc, 1985, Đồng Nai, Việt Nam
127. Maria Nguyễn Thị Ngọc Anh, 1985, Sàigòn, Việt Nam
128. Maria Nguyễn Thị Quỳnh Chi, 1990, Vũng Tàu, Việt Nam
129. Maria Vũ Thị Lan, 1955, Sàigòn, Việt Nam
130. Têrêsa Trần Ngọc Ngân Hà, 1988, Gò Vấp, Sàigòn, Việt Nam
131. Maria Trần Thị Thúy Hương, 1986, Sàigòn, Việt Nam
132. Phêrô Trần Văn Miên, 1982, Sàigòn, Việt Nam
133. Têrêsa Nguyễn Thị Thanh Tâm, 1991, Đồng Nai, Việt Nam
134. Phêrô Phạm Quốc Thương, 1991, Đồng Nai, Việt Nam
135. Lucia Nguyễn Ngọc Châu, 1983, Long An, Việt Nam
136. Gioan Baotixita Bùi Văn Dân, 1976, Thái Bình, Việt Nam
137. Maria Mađalêna Hoàng Thị Thanh Viễn, 1971, Sàigòn, Việt Nam
138. Maria Vũ Thị Khiêu, 1956, Sàigòn, Việt Nam
139. Anna Vũ Thị Thúy Phượng, Việt Nam
140. Maria Nguyễn Thị Thanh Hương, 1972, Sàigòn, Việt Nam
141. Maria Nguyễn Thị Kim Liên, 1940, Sàigòn, Việt Nam
142. Therese Phuong Duy Nguyen, 1980, Texas, Hoa Kỳ
143. Têrêsa Lê Thị Ngọc Hân, 1990, Hà Nội, Việt Nam
144. Phaolô Phạm Đức Thuận, 1989, Q. 8, Sàigòn, Việt Nam
145. Têrêsa Hoàng Thị Thùy Liên, 1986, Tân Bình, Sàigòn, Việt Nam
146. Giuse Lê Quang Hiệp, 1985, Tân Bình, Sàigòn, Việt Nam
147. Agatha Nguyễn Thị Ly Phương, 1988, Huế, Việt Nam
148. Maria Bùi Thị Xuân Tường Vi, 1975, Biên Hoà, Đồng Nai, Việt Nam
149. Maria Phạm Thị Lý, 1971, Sàigòn, Việt Nam
150. Vinh Sơn Nguyễn Văn Phùng, 1984, Nghĩa Hưng, Nam ĐỊnh, Việt Nam
151. Têrêsa Trần  Nguyễn Khánh Vy, 1990, Sàigòn, Việt Nam
152. Maria Trần Phương Thanh, 1987, Bình Chánh, Sàigòn, Việt Nam
153. Maria Nguyễn Thị Ngọc Nga, 1989, Sàigòn, Việt Nam
154. Anna Lê Ngọc Nguyên Hương, 1983, Sàigòn, Việt Nam
155. Phêrô Doãn Trạng Trung, 1977, Sàigòn, Việt Nam
157. Maria Trần Nhật Đan Khanh, 1992, California, Hoa Kỳ
158. Têrêsa Lê Thị Thanh Liêm, 1984, Sàigòn, Việt Nam
159. Gioan Nguyễn Ngọc Thạch, 1988, Sàigòn, Việt Nam
160. Maria Cecilia Lê Trần Hải Yến, 1989, Moscow, Nga
161. Phanxicô Xaviê Hoàng Trọng Bình, 1987, Sàigòn, Việt Nam
162. Vinh Sơn Phạm Văn Mỹ, 1990, Kiên Giang, Việt Nam
163. Savio Lê Thanh Nhật, 1990, Sàigòn, Việt Nam
164. Cecilia Nguyễn Thị Minh Phương, 1981, Sàigòn, Việt Nam
165. Phêrô Phaolô Bùi Quang Duy, 1985, Sàigòn, Việt Nam
166. Trần Thị Bạch Lê, 1992, Đồng Tháp, Việt Nam
167. Giuse Trịnh Xuân Sơn, 1984, Sàigòn, Việt Nam
168. Phaolô Bùi Nguyên Tâm, 1991, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
169. Giuse Vũ Sơn Phong, 1983, Sàigòn, Việt Nam
170. Trần Thị Hải Lý, 1986, Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam
171. Anna Bùi Thị Quỳnh Ngọc, 1985, quận 3, Sàigòn, Việt Nam
172. Maria Đoàn Thị Ngọc Dung, 1981, Sàigòn, Việt Nam
173. Giuse Augustino Nguyễn Quang Minh, 1988, Sàigòn, Việt Nam
174. Têrêsa Huỳnh Thị Thùy Trang, 1986, Sàigòn, Việt Nam
175. Maria Mađalêna Phạm Thị Xuân Lan, 1971, Sàigòn, Việt Nam
176. Maria Võ Thị Phượng, 1985, Hà Tĩnh, Việt Nam
177. Têrêsa Nguyễn Thị Trang, 1989, quận 3, Sàigòn, Việt Nam
178. Maria Anna Trần Diễm Phượng, 1974, Sàigòn, Việt Nam
179. Maria GB. Hà Thị Hồng Ân, 1987, Sàigòn, Việt Nam
180. Phanxicô Xaviê Vũ Xuân Quang, 1990, Sàigòn, Việt Nam
181. Anna Trần Thị Nhung, 1987, Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam
182. Maria Têrêsa Mai Hồng Trang, 1990, Sàigòn, Việt Nam
183. Maria Nguyễn Hạ Thụy Vi, 1989, Sàigòn, Việt Nam
184. Nguyễn Thị Tố Quỳnh, 1987, Sàigòn, Việt Nam
185. Anna Bùi Bảo Tú, 1987, Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam
186. Maria Nguyễn Thị Phương Thanh, 1981, Sàigòn, Việt Nam
187. Maria Nguyễn Vũ Thúy Ngân, 1983, Trảng Bom, Đồng Nai, Việt Nam
188. Giuse Nguyễn Vũ Huynh, 1985, Trảng Bom, Đồng Nai, Việt Nam
189. Maria Nguyễn Thị Mai Trinh, 1987, Trảng Bom, Đồng Nai, Việt Nam
190. Lucia Tạ Thanh Lan, 1985, Sàigòn, Việt Nam
191. Maria Trần Thị Thúy Hương, 1986, Sàigòn, Việt Nam
192. Maria Lại Thị Tâm, 1990, Nghĩa Hưng, Nam Định, Việt Nam
193. Maria Phạm Thanh Tâm, 1982, Sàigòn, Việt Nam
194. Maria Nguyễn Thị Hải, 1949, Sàigòn, Việt Nam
195. Maria Trần Thị Hương Lan, 1969, Sàigòn, Việt Nam
196. Maria Hoàng Thị Tâm, 1986, Sàigòn, Việt Nam
197. Anna Vũ Thị Hương, 1948, Sàigòn, Việt Nam
198. Maria Phan Ngọc Hiền Thảo, 1988, Sàigòn, Việt Nam
199. Giuse Trần Thanh Tâm, 1968, Sàigòn, Việt Nam
200. Giuse Đinh Quốc Công, 1986, Đồng Nai, Việt Nam
201. Luca Vũ Hoàng Anh, 1979, Sàigòn, Việt Nam
202. Anna Nguyễn Thị Thơ, 1991, Ninh Thuận, Việt Nam
203. Maria Khương Thị Dung, 1989, Sàigòn, Việt Nam
204. Margarita Maria Vũ Thị Bắc, 1948, Sàigòn, Việt Nam
205. Maria Têrêsa Vũ Hoàng Phước, 1984, Sàigòn, Việt Nam
206. Tôma Đinh Văn Khôi, 1986, Hải Hậu, Nam Định, Việt Nam
207. Vinh Sơn Nguyễn Văn Thành, 1977, quận 8, Sàigòn, Việt Nam
208. Maria Lê Thị Tho, 1987, Eaknuếc, Krông Păk, Đăk Lăk, Việt Nam
209. Têrêsa Nguyễn Thị Thùy, 1977, Sàigòn, Việt Nam
210. Anna Ngô Hồng Vy, 1985, Bình Phước, Việt Nam
211. Lê Thị Thúy An, 1989, Cần Thơ, Việt Nam
212. Phạm Quốc Hoàng, 1983, Cần Thơ, Việt Nam
213. Nguyễn Hữu Khoa, 1989, Cần Thơ, Việt Nam
214. Anna Vũ Bảo Ngọc, 1985, Đồng Nai, Việt Nam
215. Phêrô Trương Quang Tường, 1986, Việt Nam
216. Maria Nguyễn Thị Thu Hằng, 1981, Sàigòn, Việt Nam
217. Giuse Dương Thiện Chí, 1991, Bình Thuận, Việt Nam
218. Giuse Cao Văn Hoàng, 1986, Sàigòn, Việt Nam
219. Giuse Nguyễn Ngọc Điệp, 1979, Sàigòn, Việt Nam
220. Phaolô Trần Minh Nhật, 1988, Lâm Đồng, Việt Nam
221. Maria Vũ Hoàng Anh, 1987, Sàigòn, Việt Nam
222. Têrêsa Phạm Kim Cúc, 1987, Sàigòn, Việt Nam
223. Maria Goretti Nguyễn Thị Thanh Trúc, 1987, Sàigòn, Việt Nam
224. Maria Vũ Minh Hà, 1982, Sàigòn, Việt Nam
225. Maria Lê Hoài Ân, 1988, Đà Nẵng, Việt Nam
226. Maria Mai Tú Linh, 1982, Sàigòn, Việt Nam
227. Têrêsa Dư Thị Thùy Trâm, 1989, Sàigòn, Việt Nam
228. An Phong Phan Đình Kửu, Sàigòn, Việt Nam
229. Antôn Lê Hoàng Phát, 1990, Sàigòn, Việt Nam
230. Nguyễn Thị Minh Thùy, 1991, Sàigòn, Việt Nam
231. Anna Đặng Thị Hành, 1984, Quảng Bình, Việt Nam
232. Maria Mađalêna Lê Thị Hoàng Anh, 1987, Sàigòn, Việt Nam
233. Jeronimo Nguyễn Ngọc Đương, 1989, Thái Bình, Việt Nam
234. Têrêsa Phạm Kim Cúc, 1987, Thái Bình, Việt Nam
235. Têrêsa Dư Thùy Trâm Anh, 1991, Sàigòn, Việt Nam
236. Nguyễn Thị Cẩm Giang, 1988, Sàigòn, Việt Nam
237. Maria Lê Ngọc Yến, 1981, Sàigòn, Việt Nam
238. Đặng Thị Thanh Thảo, 1984, Sàigòn, Việt Nam
239. Maria Lê Thanh Vy Thủy, 1978, Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam
240. Vinh Sơn Nguyễn Chí Công, 1982, Sàigòn, Việt Nam
241. Maria Nguyễn Thị Thanh Tâm, 1984, Bình Thuận, Việt Nam
242. Anathasia Phạm Kim Ngân, 1982, Sàigòn, Việt Nam
243. Maria Nguyễn Thị Thêu, 1983, quận 1, Sàigòn, Việt Nam
244. Phêrô Trần Lê Vi, 1984, Gx. Thanh Đức, Đà Nẵng, Việt Nam
245. Nguyễn Minh Hoà, 1989, Nha Trang, Việt Nam
246. Giêrađô Nguyễn Nhất Nguyên, 1986, Sàigòn, Việt Nam
247. Phanxicô Têrêsa Trần Pha Lê, 1994, Đồng Tháp, Việt Nam
248. Phêrô Bùi Bình Thạnh, 1992, Đồng Tháp, Việt Nam
249. Clemente Lê Thái Dương, 1994, Đồng Tháp, Việt Nam
250. Giuse Ngô Thuỵ Sĩ, 1989, Bà Rịa-Vũng Tàu, Việt Nam
251. Maria Goretti Trần Thị Tuyết Trinh, 1990, Sàigòn, Việt Nam
252. Phạm Công Chính, 1987, Xuân Trường, Nam Định, Việt Nam
253. Antôn Nguyễn Xuân Quang, 1987, Quy Nhơn, Bình Định, Việt Nam
254. Đa Minh Trần Văn Việt, 1980, Trực Ninh, Nam Định, Việt Nam
255. Catarina Hứa Mỹ Na, 1991, Quảng Nam, Việt Nam
256. Maria Chu Thị Thu Cúc, 1988, Đồng Nai, Việt Nam
257. Maria Nguyễn Thị Nguyên Hương, 1986, London, Anh Quốc
258. Rosie Trịnh Xuân Mai, 1984, Sàigòn, Việt Nam
259. Giuse Vũ Văn Hòa, 1980, Hàn Quốc
260. Vinh Sơn Trần Hữu Đức, 1987, Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam
261. Maria M. Nguyễn Trần Hoàng Nhi, 1969, Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam
262. Maria Phạm Thị Trúc Mai, 1992, Đồng Nai, Việt Nam
263. Maximiliano Maria Kolbe Trần Lê Quang Vĩnh, 1986, Đà Nẵng, Việt Nam
264. Nguyễn Gia Thịnh, 1984, Sàigòn, Việt Nam
265. Đaminh Nguyễn Hữu Hoàng Thiên, 1992, Biên Hòa, Đồng Nai, Việt Nam
266. Têrêsa Avila Nguyễn T. Diệu Hiền, 1985, Bình Sơn, Quảng Ngãi,Việt Nam
267. Têrêsa Nguyễn Thị Thúy Loan, 1990, Buôn Ma Thuột, Việt Nam
268. Têrêsa Nguyễn Thị Ngọc Lãm, 1982, Đăklăk, Việt Nam
269. Nguyễn Đức Minh, 1985, Nha Trang, Việt Nam
270. Gioan Maria Vianney Nguyễn Đạt Thành, 1983, Vĩnh Long, Việt Nam
271. Maria Vũ Thị Mai, 1986, Hà Nội, Việt Nam
272. Thérèse Kim Thông Trần Ý Như, 1989, Florida, Hoa Kỳ
273. Lucia Lê Thị Hường, 1958, Thanh Đức, Đà Nẵng, Việt Nam
274. Phêrô Trần Quang Vinh, 1957, Thanh Đức, Đà Nẵng, Việt Nam
275. Nguyễn Thị Kim Oanh, 1982, Sàigòn, Việt Nam
276. Maria Lâm Hồng Anh, 1993, Phan Rang, Ninh Thuận, Việt Nam
277. Cao Thị Anh Thư, 1986, Long An, Việt Nam
278. Martha Trần Thị Thúy Vân, 1992, Thanh Đức, Đà Nẵng, Việt Nam
279. Têrêsa Ng. Thị Thanh Thúy, 1990, Ngọc Quang, Đà Nẵng, Việt Nam
280. Têrêsa Đoàn Thị Bảo Vân, 1987, Thánh Mẫu, Đà Lạt, Việt Nam
281. Anna Trần Thị Quỳnh Lan, 1993, Thanh Đức, Đà Nẵng, Việt Nam
282. Martha Nguyễn Thị Thúy Ngân, 1993, Ngọc Quang, Đà Nẵng, Việt Nam
283. Đaminh Nguyễn Thiên Sơn, 1990, Đồng Nai, Việt Nam
284. Giuse Nguyễn Quang Gia Khang, 1989, Khánh Hòa, Việt Nam
285. Antôn Trần Minh Tùng, 1987, Cần Thơ, Việt Nam
286. Maria Têrêsa Phan Hải Yến, 1982, Sàigòn, Việt Nam
287. PX. Nguyễn Bá Huy, 1984, Sàigòn, Việt Nam
288. Maria Nguyễn Thị Thu Lanh, 1986, Đồng Nai, Việt Nam
289. Giuse Trần Đức Hoàng, 1983, Sàigòn, Việt Nam
290. Giuse Trần Quang Bảo Nhân, 1982, Kontum, Việt Nam
291. Anna Lý Hà Thi Ân, 1985, Sàigòn, Việt Nam
292. Giuse Maria Trần Hoàng Nam, 1983, Sàigòn, Việt Nam
293. Đặng Thị Quý, 1985, Sàigòn, Việt Nam
294. Phaolô Lê Hữu Tuấn Nam, 1982, Sàigòn, Việt Nam
295. Đaminh Nguyễn Đại Quý, 1984, Vũng Tàu, Việt Nam
296. Catarina Nguyễn Thoại Ba, 1984, Sàigòn, Việt Nam
297. Maria Têrêsa Phạm Thị Ngọc Trâm, 1988, Sàigòn, Việt Nam
298. Phêrô Nguyễn Minh Vũ, 1988, Sàigòn, Việt Nam
299. Phùng Minh Tuấn, 1979, Vũng Tàu, Việt Nam
300. Têrêsa Trần Mai Tường Vi, 1979, Sàigòn, Việt Nam
301. Maria Mađalêna Trần Thị Kim Ngân, 1987, Sàigòn, Việt Nam
302. Võ Thị Hồng Trúc, 1981, Sàigòn, Việt Nam
303. Maria Vũ Phương Bích Vân, 1978, Sàigòn, Việt Nam
304. Têrêsa Nguyễn Thị Khánh Ly, 1985, Đăklăk, Việt Nam
305. Têrêsa Nguyễn Minh Hằng, 1989, Sàigòn, Việt Nam
306. Maria Hoàng Thị Thanh Hà, 1985, Lộc Ninh, Bình Phước, Việt Nam
307. Têrêxa Hoàng Thị Thanh Hà, 1990, Sàigòn, Việt Nam
308. Giuse Hoàng Hữu Đức, 1978, Long Thành, Bà Rịa-Vũng Tàu, Việt Nam
309. Giuse Phạm Thế Hưởng, 1983, Nam Định, Việt Nam
310. Maria Mai Thị Oanh, 1984, Nam Định, Việt Nam
311. Giuse Vũ Trung Hiếu, 1987, Sàigòn., Việt Nam
312. Anê Thành Savio Maria Ng. Thị Trúc Thủy, 1989, Vĩnh Long, Việt Nam
313. Gioan Nguyễn Phi Hổ, 1986, Đồng Nai, Việt Nam
314. GB. Đặng Duy Khanh, 1984, Sàigòn, Việt Nam
315. Giuse Dương Trọng Đính, 1985, Sàigòn, Việt Nam
316. Maria Vũ Thị Tuyết, 1985, Lâm Đồng, Việt Nam
317. Giuse Lê Đức Bưởi, 1986, Hà Tĩnh, Việt Nam
318. Maria Đặng Thị Nga, 1988, Hà Tĩnh, Việt Nam
319. Anna Phạm Diệp Thi, 1987, Sàigòn, Việt Nam
320. Têrêsa Vũ Thị Thiên Trang, 1994, Sàigòn, Việt Nam
321. Giuse Nguyễn Cao Hoàng, 1978, Sàigòn, Việt Nam
322. Maria Ngô Thị Ngọc Diệp, 1977, Sàigòn, Việt Nam
323. Maria Huỳnh Thị Hồng Hạnh, 1984, Bình Thạnh, Sàigòn, Việt Nam
324. Têrêsa Đinh Thị Kim Chi, 1991, Sàigòn, Việt Nam
325. Maria Vũ Thị Hương, 1983, Sàigòn, Việt Nam
326. Lại Thị Khánh Linh, 1984, Huế, Việt Nam
327. Louis Hồ Hoàng Long, 1986, Bến Tre, Việt Nam
328. Maria Võ Thị Minh Thư, 1986, Bến Tre, Việt Nam
329. Monica Nguyễn Hạ Giáng Anh, 1987, Bình Thạnh, Sàigòn, Việt Nam
330. Phêrô Nguyễn Thành Tuyến, 1985, Sàigòn, Việt Nam
331. Maria Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh, 1987, Los Angeles, Hoa Kỳ
332. Têrêsa Nguyễn Phương Lưu Hạnh, 1996, Sàigòn, Việt Nam
333. Maria Nguyễn Thị Sa, 1983, Nghĩa Hưng, Nam Định, Việt Nam
334. Giuse Nguyễn Tuấn Hải, 1966, Sàigòn, Việt Nam
335. Maria Trần Thị Kim Phượng, 1955, Texas, Hoa Kỳ
336. Tôma Nguyễn Minh Luân, 1987, Thủ Đức, Sàigòn, Việt Nam
337. Gioan Nguyễn Thanh Long, 1983, Hố Nai 3, Đồng Nai, Việt Nam
338. Têrêsa Lê Thị Lĩnh, 1986, Thạch Hạ, Hà Tĩnh, Việt Nam
339. Antôn Trần Văn Toàn, 1982, Sàigòn, Việt Nam
340. Maria Nguyễn Thị Liên, 1986, Sàigòn, Việt Nam
341. Phêrô Ngô Quang Minh Bảo, 1982, Bình Phước, Việt Nam
342. Maria Giuse Nguyễn Ngọc Vân Anh, 1979, Kiên Giang, Việt Nam
343. Hoàng Ngọc Mỹ Trân, 1985, Sàigòn, Việt Nam
344. Đaminh Savio Trương Cam Anh Khôi, 1985, Sàigòn, Việt Nam
345. Anna Nguyễn Thị  Tâm, 1986, Hà Tĩnh, Việt Nam
346. Têrêsa Lê Thị Hiên, 1985, Hà Tĩnh, Việt Nam
347. Maria Lê Thị Hiền, 1984, Hà Tĩnh, Việt Nam
348. Anna Vũ Thúy Vân, 1983, Nam Định, Việt Nam
349. Anrê Đỗ Duy Quang, 1983, Đồng Nai, Việt Nam
350. Anna Dương Nữ Kim Hoan, 1986, Sàigòn, Việt Nam
351. Giuse Nguyễn Văn Khanh, 1982, Bắc Giang, Việt Nam
352. Anna Nguyễn Thị Loan, 1985, Bắc Giang, Việt Nam
353. Têrêsa Calcutta Lê Thị  HIền, 1980, Sàigòn, Việt Nam
354. Maria Lê Thị Quỳnh Nga, 1987, Lâm Đồng, Việt Nam
355. Elisabeth Trương Kim Tuyến, 1985, Cần Thơ, Việt Nam
356. Maria Bùi Thị Bích Trâm, 1984, Sàigòn, Việt Nam
357. Giuse Nguyễn Ngọc Khải, 1968, Sàigòn, Việt Nam
358. Giuse Phạm Thanh Sơn, 1984, Sàigòn, Việt Nam
359. Maria Trần Thị Liễu, 1956, Sàigòn, Việt Nam
360. Martha Phạm Thị Hữu Châu, 1956, Sàigòn, Việt Nam
361. Maria Nguyễn Thị Cậy, 1947, Sàigòn, Việt Nam
362. Gioan Baotixita Trần Quốc Bảo, 1973, Sàigòn, Việt Nam
363. Têrêsa Trần Nguyễn Phượng Vy, 1979, Sàigòn, Việt Nam
364. Trịnh Đức Cường, 1979, Q. 7, Sàigòn, Việt Nam
365. Elisabeth Lê Thanh Hồng, 1983, Q. 7, Sàigòn, Việt Nam
366. Giuse Trần Hữu Việt, 1983, Sàigòn, Việt Nam
367. Maria Hoàng Thị Thu Hương, 1983, Sàigòn, Việt Nam
368. Maria Goretti Nguyễn Uy Sa, 1990, Sàigòn, Việt Nam
369. Maria Đinh Phạm Hải Đường, 1977, Sàigòn, Việt Nam
370. Phaolô Trần Hoàng Nhựt, 1985, Sàigòn, Việt Nam
371. Hoàng Ngọc Thùy, 1987, Sàigòn, Việt Nam
372. Têrêsa Ngô Thị Thu Thủy, 1984, Sàigòn, Việt Nam
373. Gioan Nguyễn Công Kha, 1981, Khánh Hòa, Việt Nam
374. Maria Nguyễn Thị Thu Oanh, 1987, Hà Tĩnh, Việt Nam
375. Maria Đỗ Thị Cẩm, 1987, Nam Định, Việt Nam
376. Anê Trần Thị Kim Thảo, 1992, Sàigòn, Việt Nam
377. Maria Anna Nguyễn An Ly, 1986, Hà Nội, Việt Nam
378. Catarina Nguyễn Thị Hương, 1992, Sàigòn, Việt Nam
379. Maria Đỗ Trần Bảo Châu, 1985, Đồng Nai, Việt Nam
380. Maria Tạ Thị Minh Hằng, 1983, Hải Phòng, Việt Nam
381. Luca Trần Thế Hoan, 1982, Bà Rịa-Vũng Tàu, Việt Nam
382. Maria Phạm Thị Dung, 1987, Bà Rịa-Vũng Tàu, Việt Nam
383. Phaolô Nguyễn Công Tuyên, 1981, Đăklăk, Việt Nam
384. Antôn Phạm Đức, 1981, Đồng Nai, Việt Nam
385. Monica Đinh Thị Diễm Thúy, 1988, Sàigòn, Việt Nam
386. Giuse Cù Trần Bảo, 1983, Sàigòn, Việt Nam
387. Têrêsa Trần Thị Kim Dung, 1981, Sàigòn, Việt Nam
388. Nguyễn Thanh Hội, 1974, Sàigòn, Việt Nam
389. Maria Nguyễn Hoàng Anh, 1983, Đồng Nai, Việt Nam
390. Giuse Lưu Tế Luân, 1983, Tiền Giang, Việt Nam
391. Vincente Vũ  Văn Tân, 1985, Thái Bình, Việt Nam
392. Elisabeth Trần Thị Phi Trâm, 1985, Ninh Thuận, Việt Nam
393. Maria Hồ Thị Ngọc Mai, 1983, Lâm Đồng, Việt Nam
394. Maria Đặng Thị Thanh Nga, 1970, Đồng Nai, Việt Nam
395. Têrêsa Vũ Thị Tiên Nương, 1989, Đồng Nai, Việt Nam
396. Maria Nguyễn Thị Hồng Vân, 1978, Đồng Nai, Việt Nam
397. Maria Nguyễn Thị Vân, 1983, Hà Tĩnh, Việt Nam
398. Maria Mađalêna Đinh Thị Quy, 1989, Ninh Bình, Việt Nam
399. Anna Đặng Thị Tuyền, 1984, Vĩnh Long, Việt Nam
400. Giacôbê Nguyễn Tuấn Nhật Anh, 1986, Sàigòn, Việt Nam
401. Phêrô Nguyễn Văn Hùng, 1989, Quảng Bình, Việt Nam
402. Martha Nguyễn Thị Ngân, 1989, Quảng Bình, Việt Nam
403. Maria Đoàn Thị Thùy Linh, 1964, Sàigòn, Việt Nam
404. Elisabeth Trần Anh Thư, 1990, Tiền Giang, Việt Nam
405. Anna Hoàng Xuân, 1968, Đồng Nai, Việt Nam
406. Maria Phạm Thị Dung, 1961, Sàigòn, Việt Nam
407. Maria Nguyễn Thị Lụa, 1979, Nam Định, Việt Nam
408. Vinhsơn Nguyễn Trọng Hiền, 1955, Sóc Trăng, Việt Nam
409. Maria Trịnh Thị Mộng Trinh, 1966, Sàigòn, Việt Nam
410. Maria Bùi Thị Hồng Loan, 1970, Sàigòn, Việt Nam
411. Maria Bùi Phương Hồng Hạnh, 1967, Sàigòn, Việt Nam
412. Đặng Thị Thu Sương, 1988, Phú Yên, Việt Nam
413. Têrêsa Lê Thị Thu Hà, 1983, Sàigòn, Việt Nam
414. Giuse Maria Nguyễn Phú Quốc, 1975, Nam Định, Việt Nam
415. Maria Mađalêna Nguyễn Huỳnh Hồng Kim, 1980, An Giang, Việt Nam
416. Maria Phạm Anh Nga, 1986, Vũng Tàu, Việt Nam
417. Anna Nguyễn Ngọc Mỹ Hạnh, 1991, Bình Thuận, Việt Nam
418. Giuse Đỗ Hữu Thịnh Truyền, 1971, Hà Tây, Việt Nam
419. Maria Nguyễn Thị Thúy Hồng, 1965, Sàigòn, Việt Nam
420. Maria Phạm Minh Hiếu, 1972, Sàigòn, Việt Nam
421. Maria Đặng Thị Mỹ Phượng, 1968, Sàigòn, Việt Nam
422. Anna Đỗ Thị Mộng Hà, 1974, Sàigòn, Việt Nam
423. Phêrô Huỳnh Thiên Sơn, 1985, Sàigòn, Việt Nam
424. Maria Lê Thị Bích Vân, 1983, Trà Vinh, Việt Nam
425. Maria Dương Thị Bảo Ngân, 1983, Sàigòn, Việt Nam
426 Têrêsa Paulina Huỳnh Thư, 1980, Sàigòn, Việt Nam
427. GB. Nguyễn Hồng Sơn, 1950, Hà Nội, Việt Nam
428. Têrêsa Bùi Thị Thanh Hiếu, 1965, Hà Nam, Việt Nam
429. Têrêsa Giáp Thị Hồng Diệp, 1990, Sàigòn, Việt Nam
430. Anna Nguyễn Thị Như Thùy, 1988, Ninh Thuận, Việt Nam
431. Têrêsa Bùi Thị Rạng, 1954, Sàigòn, Việt Nam
432. Anna Nguyễn Thị Tuyết Nhung, 1987, Đồng Nai, Việt Nam
433. Angela Trần Hoàng Thiên Hương, 1983, Gia Lai, Việt Nam
434. Anna Phan Thị Thanh Ngà, 1983, Lâm Đồng, Việt Nam
435. Têrêsa Trần Cẩm Hường, 1984, Buôn Ma Thuột, Việt Nam
436. Maria Lê Thị Tuyết Lan, 1985, Buôn Ma Thuột, Việt Nam
437. Têrêsa Nguyễn Thị Thùy Dương, 1979, Sàigòn, Việt Nam
438. Anna Nguyễn Thị Sáu, 1992, Ninh Bình, Việt Nam
439. Maria Nguyễn Thị Hồng Tuyền, 1976, Sàigòn, Việt Nam
440. GB. Vũ Văn Phòng, 1976, Sàigòn, Việt Nam
441. Rosa Nguyễn Khánh Duyên, 1979, Yên Bái, Việt Nam
442. Maria Lê Thị Kim Loan, 1977, An Giang, Việt Nam
443. Maria Ngô Thị Mỹ Dung, 1963, Sàigòn, Việt Nam
444. Giuse Trần Văn Bình, 1982, Sàigòn, Việt Nam
445. Têrêsa Lê Thị Ngọc Miên, 1979, Nghệ An, Việt Nam
446. Maria Nguyễn Thị Nga, 1942, Sàigòn, Việt Nam
447. Anna Hoàng Thị Kim Hoàn, 1981, Nghệ An, Việt Nam
448. Antôn Phaolô Bùi Phước Tài, 1987, Sàigòn, Việt Nam
449. Anna Nguyễn Thị Miễn, 1952, Sàigòn, Việt Nam
450. Maria Nguyễn Thị Ngọc Phương, 1968, Sàigòn, Việt Nam
451. Martha Lê Thị Thanh Tâm, 1987, Sàigòn, Việt Nam
452. Maria Võ Thị Xuân Hiền, 1985, Bình Thuận, Việt Nam
453. Phaolô Trần Minh Trí, 1982, Tiền Giang, Việt Nam
454. Têrêsa Phạm Thị Huyền Trang, Sàigòn, Việt Nam
455. Gioan Baotixita Nguyễn Mạnh Thành, 1972, Nam Định, Việt Nam
456. Maria Đặng Thị Mỹ Hương, 1988, Bình Thuận, Việt Nam
457. Giuse Võ Văn Rin, 1988, Huế, Việt Nam
458. Maria Nguyễn Thị Ngân, 1989, Quảng Bình, Việt Nam
459. Maria Phạm Thị Kim Chung, 1988, Nam Định, Việt Nam
460. Giuse Nguyễn Thanh Hội, 1973, Sàigòn, Việt Nam
461. Martha Trần Thị Lệ Thu, 1992, Quảng Bình, Việt Nam
462. Têrêsa Trần Thị Kim Dung, 1981, Sàigòn, Việt Nam
463. Maria Têrêsa Phan Thị Mỹ Phượng, 1986, Quảng Ngãi, Việt Nam
464. Đa Minh Nguyễn Phúc Thiên, 1985, Bà Rịa-Vũng Tầu, Việt Nam
465. Phêrô Phạm Anh Dũng, 1957, Texas, Hoa Kỳ
466. Têrêsa Đậu Thị Kim Huệ, 1983, Sàigòn, Việt Nam
467. Giuse Lê Minh Hiển, 1990, Lyon, Pháp
468. Giuse Hoàng Xuân Thanh, 1976, Thái Bình, Việt Nam
469. Maria Nguyễn Như Ý, 1988, Cà Mau, Việt Nam
470. Martha Phan Thị Mỹ Huê, 1991, Tền Giang, Việt Nam
471. Bùi Thị Thúy Quyên, 1976, Tiền Giang, Việt Nam
472. Nguyễn Gia Bảo, 1976, Hà Nội, Việt Nam
473. Maria Nguyễn Thị Bạch Tuyết, 1985, Đồng Nai, Việt Nam
474. Têrêsa Trần Thị Như Tâm, 1990, Lâm Đồng, Việt Nam
475. Anna Nguyễn Thị Khuyên, 1989, Cát Tiên, Lâm Đồng, Việt Nam
476. Phêrô Lê Sơn Vũ, 1982, Quảng Nam, Việt Nam
477. Têrêsa Nguyễn Phạm Nguyệt Minh, 1984, Sàigòn, Việt Nam
478. Têrêsa Bùi Thị Xuân Thu, 1979, Đồng Nai, Việt Nam
479. Võ Thị Mỹ Linh, 1988, Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam
480. Laurensô Trương Công Lý, 1986, Sàigòn, Việt Nam
481. Antôn Nguyễn Đăng Khoa, 1977, Lâm Đồng, Việt Nam
482. Anna Đoàn Thị Thu Linh, 1982, Đăklăk, Vệt Nam
483. Catarina Lê Kim Gấm, 1984, Dầu Tiếng, Bình Dương, Việt Nam
484. Giuse Nguyễn Phước Thiện, 1987, Kiên Lương, Kiên Giang, Việt Nam
485. Đa Minh Bùi Quốc Tuấn, 1989, Sàigòn, Việt Nam
486. Nguyễn Huỳnh Ngân, 1991, Vĩnh Long, Việt Nam
487. Gioan Baotixita Châu Bạch Nhi Tòng, 1969, Sàigòn, Việt Nam
488. Nguyễn Hữu Quy, 1980, Nha Trang, Việt Nam
489. Rosa Vũ Thụy Thanh Vy, 1988, Sàigòn, Việt Nam
490. Phêrô Ưng Ngọc Tuấn, 1983, Quảng Ninh, Việt Nam
491. Maria Hoàng Thị Diễm Hương, 1983, Nam Định, Việt Nam
492. Maria Nguyễn Thụy Ngọc Lan, 1977, Sàigòn, Việt Nam
493. Nguyễn Thị Thanh Hà, 1956, Hà Nội, Việt Nam
494. Têrêsa Trần Thị Kim Chi, 1985, Lâm Đồng, Việt Nam
495. Giuse Nguyễn Ngọc Huy, 1988, Nghệ An, Việt Nam
496. Maria Trần Thị Thanh Xuân, 1984, Thái Bình, Việt Nam
497. Giuse Đặng Văn Lượng, 1986, Xuân Trường, Nam Định, Việt Nam
498. Têrêsa Đặng Thị  Mỹ Tiên, 1990, Bình Dương, Việt nam
499. Maria Trần Ngọc Ngân Hà, 1990, Thái Bình, Việt Nam
500. Cécilia Trần Thúy Hằng, 1985, Đồng Nai, Việt Nam
501. Antôn Phan Hữu Huynh, 1987, Khánh Hòa, Việt Nam
502. Hoàng Văn Long, 1989, Hưng Yên, Việt Nam
503. Martino Nguyễn Phạm Thành Nhân, 1990, Sàigòn, Việt Nam
504. Maria Nguyễn Vũ Vy Vy, 1984, Sàigòn, Việt Nam
505. Nguyễn Đỗ Duy Hưng, 1981, Bến Tre, Việt Nam
506. Anna Nguyễn Thị Duyên, 1991, Bắc Giang, Việt Nam
507. Nguyễn Thị Thanh Trâm, 1987, An Giang, Việt Nam
508. Nguyễn  Hoàng Trung, 1972, Sàigòn, Việt Nam
509. Luca Trần Đức Hải, 1963, Texas, Hoa Kỳ