Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay

clip_image001Chủ trương đổi mới đã giúp Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy chung của nhân loại và đưa đất nước từ một nền kinh tế nghèo nàn đến một trong những nước có tăng trưởng kinh tế cao nhất châu Á. Tiến trình hội nhập được cụ thể hóa qua việc Việt Nam trở nên thành viên của khối ASEAN, tham gia APEC, gia nhập WTO. Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và thu hút đầu tư của nhiều tập đoàn nước ngoài. Xã hội ngày càng trở nên năng động, sáng tạo và nhìn chung có vẻ giàu có hơn. Nhưng tình hình gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang mất định hướng, thiếu tính bền vững và nhân bản, vì đổi mới kinh tế không song hành đổi mới chính trị, cũng như tăng trưởng kinh tế không nối kết với phát triển xã hội và phát triển con người toàn diện.


Thư chung hậu Đại hội Dân Chúa năm 2010 mời gọi tất cả các thành viên của Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam cố gắng nhận diện và phân định “hiện trạng xã hội Việt Nam dưới ánh sáng đức tin”. Chính trong viễn tượng đó, Ủy ban Công lý và Hòa bình thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam muốn bày tỏ một vài thao thức, suy nghĩ và nhận định về tình hình Đất nước, vừa với tư cách công dân, vừa với tư cách Kitô hữu.


Nền kinh tế Việt Nam

Sau gần hai thập niên đạt tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp nhất, nhưng tình trạng mấy năm gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân và tương lai của đất nước. Biểu hiện rõ nhất là quản lý kinh tế yếu kém, các tập đoàn Nhà nước thua lỗ nặng, doanh nghiệp phá sản càng nhiều ngân hàng lãi càng lớn, lạm phát tăng cao, chênh lệch giàu nghèo nới rộng, chất lượng cuộc sống của đại đa số dân chúng giảm sút, nhiều người rơi trở lại tình trạng nghèo trước đây… Phải chăng mô hình kinh tế hiện tại đang làm giàu cho nhóm đặc lợi hơn là cho toàn dân?

Định hướng kinh tế lấy quốc doanh làm chủ đạo đã tạo ra độc quyền và lạm quyền, làm méo mó sự vận hành cần có của nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế nhưng lại nhận nhiều đặc quyền đặc lợi, gây bất công và kìm hãm sự phát triển của khối tư nhân. Nợ nước ngoài và thâm thủng mậu dịch đã và đang gia tăng khiến nền kinh tế bị suy yếu và lệ thuộc. Lạm phát gia tăng cũng làm tăng đói nghèo, gây khó khăn hơn cho cuộc sống của người dân và cả các doanh nghiệp. Đình công tiếp tục tăng cao chứng tỏ quyền lợi của công nhân chưa được bảo vệ thỏa đáng. Một số chủ trương không hợp lòng dân mà vẫn được Nhà nước tiến hành như vụ khai thác bô-xit Tây Nguyên hoặc dự án xây nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận.

Luật đất đai

Luật đất đai hiện hành, vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn trọng Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Đó là nguyên nhân của khoảng 80% các khiếu kiện trong nước. Các vụ khiếu kiện này đã đi từ khiếu nại cá nhân đến khiếu kiện tập thể; từ khiếu kiện bằng đơn từ đến tập họp phản đối và nay là dùng vũ khí chống lại việc thu hồi đất.

Luật đất đai qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng do Nhà nước quản lý đã làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất và chẳng có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà tổ tiên”. Trên  thực tế, sở hữu toàn dân không phải là phương thức quản lý đất đai tốt nhất, còn việc Nhà nước làm chủ sở hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của chính quyền các cấp trong việc quy hoạch và thu hồi đất cho các dự án, tước mất quyền căn bản của người dân.

Vấn đề gây bức xúc nhiều nhất trong việc thu hồi đất là giá đền bù. Muốn giải quyết tranh chấp về giá đền bù giữa người bị thu hồi đất và cơ quan chức năng hoặc các nhà đầu tư, thì phải làm sao để người bị thu hồi đất được đền bù ngang giá với tài sản của họ bị trưng dụng và cuộc sống của họ phải tốt đẹp ngang hay hơn trước khi bị trưng dụng. Vì giá đất tăng gấp bội sau khi quy hoạch, nên người bị thu hồi đất cần được chia phần sự chênh lệch giá cả này bằng nhiều cách khác nhau. Điều cần thiết là nên cấp tốc sửa đổi Luật đất đai để người dân được quyền sở hữu đất và hạn chế tối đa quyền thu hồi đất của các cấp chính quyền.

Môi trường xã hội

Xã hội Việt Nam đang bộc lộ nhiều hiện tượng rất đáng quan ngại. Nổi bật nhất vẫn là hai tật xấu đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam cảnh báo từ năm 2008, đó là gian dối và bạo lực. Chúng không những phô bày nơi đường phố, trên thương trường và các phương tiện thông tin đại chúng, mà còn xâm nhập vào công sở và học đường. Dư luận đang bức xúc vì hiện tượng lạ lùng là tại một số nơi, cơ quan công quyền lại sử dụng bạo lực phi pháp để giải quyết các khiếu kiện dân sự.

Bên cạnh những tệ nạn đang tác hại xã hội Việt Nam hôm nay, nhiều người âu lo vì khuynh hướng sống hưởng thụ, chụp giựt, coi trọng đồng tiền, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại… Hiện tượng này chứng tỏ tình trạng thiếu vắng các giá trị đạo đức nền tảng làm chuẩn mực cho đời sống xã hội, vì vậy một số người đã cảnh báo về một xã hội lệch chuẩn hay phi chuẩn.

Tham nhũng đã được coi là đại họa của quốc gia, ngày càng tinh vi và nghiêm trọng hơn, nhưng cho đến nay chưa một vụ án nào xứng tầm được đưa ra xét xử để răn đe, làm giảm sút niềm tin của người dân nơi công quyền.

Các vụ khiếu kiện, chủ yếu liên quan đến đất đai, trong đó có đất tôn giáo, vẫn tiếp diễn phức tạp và ngày càng trầm trọng, gây bất an và căng thẳng xã hội. Vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phòng, và Văn Giang, Hưng Yên, gây xúc động mạnh mẽ trên tất cả những người Việt Nam có tâm huyết, buộc Nhà nước phải nhìn lại cách giải quyết vấn đề, mà cốt yếu là sửa đổi Luật đất đai về mặt hạn điền, thời hạn sử dụng đất và giá đền bù…, nếu chưa đi đến chỗ nhìn nhận quyền tư hữu chính đáng của công dân.

Một yêu cầu cấp bách khác là cần thay đổi lề lối làm việc cửa quyền, không minh bạch và thiếu chuyên môn của cán bộ. Biểu hiện rõ rệt nhất ở sự áp đặt của Nhà nước về quan điểm và cách sống trong xã hội, đó là sự phân biệt đối xử trong chính sách công giữa các cá nhân làm việc cho Nhà nước với các doanh nhân và người lao động tự do, giữa người dân thành thị và người nhập cư ngoại tỉnh.

Lĩnh vực pháp luật

Hiến pháp và pháp luật của mỗi quốc gia phản ánh tính đặc thù và cá biệt theo truyền thống văn hóa dân tộc mình, nhưng cũng không vì thế mà bất chấp những chuẩn mực pháp lý quốc tế. Việt Nam có một hệ thống pháp luật đồ sộ, nhưng không hiệu quả từ lập pháp đến hành pháp, vì thiếu sự công khai, minh bạch, và nhất là thiếu sự độc lập về tư pháp.

Việc áp dụng luật pháp chưa nghiêm minh và tùy tiện, nhất là ở cấp địa phương, đã dẫn đến những oan sai và đôi khi đẩy người dân đến bước đường cùng. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định các thủ tục bắt người; vậy mà trong một số trường hợp, vẫn có các công dân bị bắt sai trái với các quy định của bộ luật ấy, cũng như với các tuyên ngôn và công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Việc giam giữ người không qua xét xử được che đậy dưới từ ngữ “đưa vào cơ sở giáo dục” có thời hạn và áp dụng cho những người bày tỏ sự bất đồng chính kiến là một hình thức vi phạm quyền cơ bản của con người. Hình thức “giáo dục” này thực ra là một biện pháp mà thực dân Pháp sử dụng ở nước ta, sau đó được lập lại bằng Nghị quyết 49/NQ-TVQH ngày 20/6/1961 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đã là cơ sở pháp lý cho việc tập trung cải tạo các công chức và quân nhân chính quyền Miền Nam cũ. Sau này có một chuyển biến tốt đẹp về biện pháp này khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành năm 1989 không sử dụng nó nữa. Nhưng với Pháp lệnh năm 1995, nó lại được tái lập dưới cái tên hiện nay và được Pháp lệnh năm 2002 nối tiếp. Hy vọng trong lần ban hành tới về xử lý vi phạm hành chính, kiểu “giáo dục” ấy sẽ được bãi bỏ.

Căn bệnh trầm kha trong quản lý và điều hành của các cấp chính quyền chỉ được giải quyết khi Việt Nam xây dựng một Nhà nước pháp quyền thực sự và hình thành một xã hội công dân năng động. Bất chấp những khó khăn hiện tại, đây là một xu thế không thể đảo ngược.

Biên cương, hải đảo và chủ quyền quốc gia

Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Biển Đông đã một vài lần nổi sóng. Nhưng trong những năm gần đây, sự căng thẳng đã lên đến mức độ nguy hiểm. Nhà cầm quyền Trung Quốc một mặt dùng lời lẽ hoa mỹ, với thông điệp rất êm tai, nhưng mặt khác, các hành động của họ về chủ quyền trên Biển Đông ngày càng phản ánh rõ rệt chủ trương Đại Hán.

Trong khi đó, bên Việt Nam, phản ứng của Nhà nước xem ra quá yếu ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù nghịch lấn tới. Khó hiểu hơn nữa là việc chính quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và các cá nhân yêu nước phản đối hành động xâm lược trắng trợn. Thái độ lập lờ, thiếu nhất quán của các nhà lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh thổ vùng biên giới và bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông đang gây bất bình trong dư luận. Nhiều nhân sĩ và các nhà trí thức tâm huyết đã lên tiếng cảnh báo những nguy cơ về an ninh quốc gia do một số dự án cho nước ngoài khai thác bô-xít và thuê đất, thuê rừng. Mặt khác, các thông tin về lĩnh vực này không đầy đủ, chậm chạp và thiếu công khai. Điều trước mắt đã xảy ra là “lao động phổ thông” nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam để thực hiện các dự án trên đang gây bất ổn cho xã hội hiện tại và về lâu dài.

Môi trường sinh thái

Theo dự báo của các cơ quan chuyên môn, Việt Nam sẽ là một trong bốn nước phải gánh chịu hậu quả nghiệt ngã nhất của biến đổi khí hậu. Nguyên nhân một phần do tác động của biến đối khí hậu toàn cầu, nhưng một phần khác do chúng ta thiếu quan tâm đến môi trường sinh thái và tính bền vững trong phát triển.
Điều đáng quan ngại nhất là chúng ta vụng về và vội vàng trong khai thác tài nguyên. Những năm gần đây Nhà nước đã cho nước ngoài đầu tư nhiều dự án có nguy cơ hủy hoại môi trường, thay đổi hệ sinh thái và làm biến đổi khí hậu: khai thác bô-xit tại Tây nguyên, cho thuê rất nhiều khu rừng đầu nguồn thuộc 18 tỉnh từ Bắc chí Nam, rất nhiều tỉnh đã khoanh biển và bờ biển cho các công ty ngoại quốc thuê để xây khách sạn, lập bãi tắm hoặc các dự án khác, mà không quan tâm đến môi trường sinh thái.

Vai trò của Trí thức

Gần 1000 năm trước, cùng với việc thành lập Quốc Tử Giám, tổ tiên chúng ta đã nhận thức sâu sắc rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì nước yếu mà thấp hèn” (Bia Văn Miếu). Điều này vẫn luôn đúng và càng đúng hơn cho kỷ nguyên chất xám, thời đại của nền kinh tế tri thức hôm nay.

Bỏ ra ngoài hiện tượng gia tăng đột biến số lượng các tiến sĩ mà chất lượng còn đáng nghi ngại, Việt Nam còn khá nhiều hiền tài đích thực, những trí thức thực tài và có tâm huyết với nước, với dân. Chỉ tiếc rằng vai trò của họ chưa được coi trọng, có khi còn bị gạt ra bên lề hoặc bị kỳ thị, mà nguyên nhân, trong nhiều trường hợp, chỉ là do sự khác biệt về quan điểm đánh giá hiện thực xã hội hoặc về tầm nhìn tương lai của Dân tộc. Phải chăng cơ chế Nhà nước bất cập và chưa đủ mở rộng để thu hút người tài, cũng như chưa cải tổ cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội tân tiến? Bao giờ vai trò của xã hội dân sự được nhìn nhận và thực sự có cơ hội tích cực góp phần xây dựng đất nước?

Giáo dục và Y tế

Tương lai của Dân tộc tùy thuộc phần lớn vào giáo dục. Không thể phủ nhận rằng nền giáo dục quốc gia đã sản sinh một số nhân tài và góp phần vào việc phát triển Đất nước. Nhưng nhìn chung, trong mấy thập niên qua, nền giáo dục của chúng ta có quá nhiều bất cập về nội dung, phương pháp dạy và học… Việt Nam đã có nhiều nỗ lực “cải cách giáo dục” nhưng không đi đến những đột phá thực chất. Vì sao? Phải đau đớn mà nói rằng vì chúng ta thiếu hẳn một triết lý giáo dục mang tính nền tảng và chiến lược lâu dài.

Hậu quả thê thảm của thực trạng trên là những gì chúng ta đang nhìn thấy trước mắt: Gia tăng các tệ nạn khủng khiếp trong học đường, tội phạm tuổi học sinh sinh viên ngày càng nhiều,  gian dối trong thi cử trở thành bình thường, bằng cấp giả hay nguy hiểm hơn nữa, bằng cấp thật mà kiến thức giả. Kết quả cay đắng là Đất nước có nguy cơ bị tụt hậu về nhiều phương diện.

Nhờ áp dụng các công nghệ mới, y tế Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được một số thành tựu trong việc khám chữa bệnh và y tế dự phòng. Nhân viên y tế ngày càng được đào tạo bài bản và có chuyên môn cao hơn. Nhưng do hệ quả của nền giáo dục nói trên, cũng như  khuynh hướng tập trung vào sức khỏe thể chất và thiếu định hướng y tế toàn diện, nên hệ thống y tế đang bị sa lầy. Bên cạnh tình trạng quá tải trầm trọng tại các bệnh viện Trung ương và việc tăng viện phí ảnh hưởng mạnh tới người nghèo, dư luận nói nhiều đến sự vô cảm, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của nhân viên y tế…

Nhà nước đã kêu gọi “xã hội hóa” giáo dục và y tế, thiết tưởng nên tạo điều kiện để các tôn giáo trong nước được tham gia trực tiếp vào hai lĩnh vực này.

Lĩnh vực tôn giáo

Trong thời gian qua, nhà cầm quyền đã tạo cơ hội thuận tiện cho các sinh hoạt tôn giáo, hầu hết các cơ sở tôn giáo bị tàn phá trong thời chiến tranh đã được trùng tu, nhiều cơ sở mới đã và đang được xây dựng. Tuy nhiên, qui định pháp luật liên quan đến các tôn giáo vẫn còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được nguyện vọng của các tín đồ, cụ thể nhất là về tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo. Điểm mấu chốt là các tôn giáo đã được nhìn nhận, nhưng lại chưa có tư cách pháp nhân, nên không thể thực thi và bảo vệ các quyền hiến định của mình, như các tổ chức xã hội và nghề nghiệp khác.

Hiện nay, Nhà nước dự định ban hành một Nghị định “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo”, thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ – CP ngày 01-03-2005. Thật đáng hoan nghênh nếu văn bản này được soạn thảo trên tinh thần đổi mới, thực sự cầu thị để tạo thuận lợi cho tín đồ các tôn giáo được tự do hoạt động, góp phần vào việc phục vụ đồng bào và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng một số người đang băn khoăn vì sợ văn bản này lại là một bước thụt lùi, so với Nghị định nêu trên. Câu hỏi nền tảng là bao giờ các công dân có tôn giáo được đối xử bình đẳng với các công dân khác, theo Hiến pháp và Dân luật, mà không cần đến một Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo nữa?

* * *

Những nhận định trên đây phát xuất từ niềm tin Kitô giáo và trách nhiệm công dân với ước nguyện góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng một đất nước phát triển vững bền, dân chủ và nhân ái. Trong vấn đề này, huấn từ của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, ngày 27-06-2009, với các Giám mục Việt Nam vẫn là định hướng căn bản của Ủy ban Công lý và Hòa bình: “Giáo Hội không hề muốn thay thế Chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng nhau, Giáo Hội có thể góp phần mình vào đời sống của đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân”.


Ngày 15 tháng 5 năm 2012, kỷ niệm 121 năm Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự)

ỦY BAN CÔNG LÝ & HÒA BÌNH / HĐGMVN

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Thánh lễ cầu nguyện cho Lm Antôn Phạm Đình Phùng


 










 Tối hôm nay, lúc 19 giờ 30 phút ngày 29 tháng 5 năm 2012, tại trụ sở Giáo phận Vinh tại Sài Gòn, đã có thánh lễ đồng tế cầu nguyện cho cha Antôn Phạm Đình Phùng vừa mới qua đời lúc 5 giờ 30 sáng nay tại bệnh viện Nhiệt Đới, Sài Gòn.


Thánh lễ do cha Giám đốc Gioan Baotixita Phạm Quang Long chủ tế và bốn cha đồng tế, cùng với đông đảo các tu sĩ, sinh viên và giáo đân (đặc biệt là giáo dân Giáo xứ Thuận Nghĩa nơi cha đang quản nhiệm) đang sinh sống và học tập tại Sài Gòn.

Thánh lễ đã diễn ra rất linh thiêng với đầy sự tiếc nuối trước sự ra đi đột ngột của cha. Sau khi thánh lễ kết thúc mọi người đã ở lại thắp nén hương và cầu nguyện riêng cho ngài.

Trong niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh chúng ta tin tưởng vào sự sống vĩnh cửu đời sau và cùng nhau cầu nguyện cho linh hồn cha An-tôn.

Mọi người thắp nén hương cầu nguyện cho cha An-tôn

Xuân Giáp

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Ân sủng rẻ tiền và ân sủng đắt giá

GM Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Bài giảng lễ phong chức phó tế tại Sài Gòn ngày 26/5/2012 


Một vị giám mục cao tuổi nhận được thiệp mời dự lễ Trao tác vụ linh mục. Ngài hỏi tôi: gọi là trao tác vụ linh mục có đúng không, hay phải gọi là truyền chức linh mục? Ngài có lý, vì cách nói trao tác vụ linh mục hay tác vụ phó tế có thể gây hiểu nhầm rằng linh mục hay phó tế chỉ là một nhiệm vụ, một công việc, dù là công việc thánh. Đang khi đó, chức linh mục, chức phó tế không chỉ là một nhiệm vụ mà là điều gì đó sâu xa hơn nhiều. Trước hết và trên hết, đó là một ân sủng, “hồng ân Thánh Thần, cho phép thực thi một quyền thánh chức, quyền này chỉ có thể phát xuất từ chính Đức Kitô, qua Hội Thánh của Người” (GLHTCG số 1537). Chỉ trên nền tảng đó mới có thể nói đến tác vụ linh mục hay phó tế. Hiện hữu đi trước hành động. Chức linh mục thừa tác đi trước và làm nền cho thừa tác vụ linh mục. Dù khi già yếu bệnh tật hoặc trong hoàn cảnh không thể thi hành nhiệm vụ, linh mục vẫn là linh mục. Và chức linh mục hay phó tế ấy trước hết là một ân sủng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự là thượng tế nhưng phải được Thiên Chúa kêu gọi, như ông Aharon đã được gọi” (Dt 5,4).
Vì là ân sủng được trao ban cho nên người lãnh nhận không có lý do gì để tự kiêu tự đắc cả, mà đúng hơn, phải biết đón nhận với lòng biết ơn và khiêm tốn. Sự khiêm tốn ấy vừa phát sinh từ ý thức về sự cao cả của hồng ân mình lãnh nhận, vừa phát xuất từ ý thức về sự mỏng dòn yếu đuối của bản thân.
Cách cụ thể, trong nghi thức phong chức hôm nay, vị giám mục chủ phong trao sách Phúc Âm cho từng tân chức với lời căn dặn: “Con hãy nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà con đã trở thành người rao giảng, và con phải biết là hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Vậy có ai trong anh em dám tự hào rằng, bằng sức riêng của mình, tôi sẽ sống cách hoàn hảo Lời mà tôi rao giảng? Bằng sức riêng của mình, tôi sẽ làm cho mọi người tin vào Chúa Kitô là Đường, Sự Thật và Sự Sống?
Cũng trong nghi thức hôm nay, các tân chức thề hứa vâng phục Đấng bản quyền và sống độc thân trọn đời. Có ai trong anh em dám tự hào rằng, bằng sức riêng của mình, tôi sẽ trung thành trọn đời và trọn vẹn lời thề hứa đó, nghĩa là từ trong tâm hồn chứ không chỉ là tránh những vi phạm bên ngoài?

Tự đặt cho mình những câu hỏi như thế để khám phá sự mỏng dòn và yếu đuối của mình, nhờ đó sống khiêm tốn hơn. Chính sự khiêm tốn ấy thúc đẩy chúng ta cậy trông vào Chúa, và cầu nguyện là sự diễn tả niềm cậy trông ấy. Tôi nhớ lại hình ảnh Đức hồng y John Henry Newman. Là một linh mục Anh giáo và nhà tư tưởng nổi tiếng ở Oxford lúc ấy, nhưng khi nghiên cứu, ngài khám phá ra chỉ có Hội Thánh công giáo mới là Hội Thánh đích thực của Chúa Kitô. Thế nhưng quả là sự giằng co xâu xé khi phải giã từ Anh giáo cùng với biết bao đau khổ gây ra cho những người thân yêu, tin tưởng nơi ngài. Với tâm trạng ấy, trên chuyến tầu giữa biển cả mênh mông và sương mù giăng kín, ngài đã viết nên lời cầu nguyện nổi tiếng Lead, kindly Light:


“Ánh sáng dịu êm, xin dẫn con.
Dẫn con đi tới giữa đêm mịt mùng…
Dẫn con vững bước trên đường
Con không cầu thấy chân trời xa xôi.
Dẫn con, dẫn con từng bước,
Từng bước một thôi”.
Hãy mang lấy những tâm tình cầu nguyện ấy, lời cầu nguyện của những tâm hồn khiêm tốn và đầy ắp niềm trông cậy. Đồng thời, khi nói đến ân sủng, đừng nghĩ rằng ân sủng miễn trừ mọi nỗ lực và cố gắng của con người. Bởi lẽ, nói theo ngôn ngữ của Dietrich Bonhoeffer, ân sủng mà chúng ta lãnh nhận là ân sủng đắt giá chứ không phải thứ ân sủng rẻ tiền. Là một mục sư Tin Lành Lutheran, Bonhoeffer bị Đức quốc xã bắt giam và bị treo cổ. Chính trong những ngày bị nhốt trong tù, ông đã viết ra những dòng này:
“Ân sủng rẻ tiền là lời rao giảng ơn tha thứ mà không đòi hỏi hoán cải, chịu Phép Rửa mà không cần sống theo giáo huấn của Giáo Hội, rước lễ mà không cần xưng tội, nhận ơn xá giải mà không cần thống hối. Ân sủng rẻ tiền là thứ ân sủng không đòi hỏi phải sống đời sống người môn đệ, thứ ân sủng không có thập giá, thứ ân sủng không có Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng sống và nhập thể làm người. Còn ân sủng đắt giá là kho tàng chôn giấu trong ruộng sâu, và vì kho tàng đó mà một người vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mua cho bằng được.
Đó là viên ngọc vô giá mà người lái buôn sẵn sàng bán đi tất cả của cải để mua lấy. Đó là lề luật vương giả của Chúa Kitô có thể khiến cho một người dám móc mắt mà quăng đi nếu nó gây trở ngại. Đó là lời mời gọi của Chúa Kitô khiến cho các môn đệ bỏ cả thuyền và lưới mà đi theo Người. Ân sủng đắt giá là Tin Mừng phải được tìm đi tìm lại, là ơn ban ta phải khấn xin, là cánh cửa ta phải gõ vào… Ân sủng đó đắt giá vì Thiên Chúa đã phải trả giá bằng chính sự sống của Con Một Ngài, và cái khiến Thiên Chúa phải trả giá đắt dứt khoát không thể nào là rẻ tiền đối với chúng ta”.
Vâng, ân sủng mà hôm nay chúng ta lãnh nhận là ân sủng đắt giá. Và vì đắt giá nên chúng ta phải trả bằng cả con người và cuộc đời mình, một cuộc đời dám sống cho Chúa và phần rỗi các linh hồn. Xin anh chị em cầu nguyện cho các tân chức và cho tất cả chúng tôi, các giám mục và linh mục có mặt ở đây, sống được như thế.
Ngày 26-05-2012
Lễ phong chức phó tế cho các đại chủng sinh Sài Gòn

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WHĐ

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

My new blog

>>phamkong.blogspot.com

Trang web của trụ sở Giáo phận Vinh tại Sài Gòn

http://trusovinh.net/ 
trang mục vụ di dân của giáo phận Vinh tại miền Nam,
đặc biệt đăng tải những tài liệu liên quan đến di dân và hôn nhân và gia đình.


Mỗi đôi hôn phối, sau khi cứ hành bí tích tại đây,
ngoài chứng thư gửi cho các giáo xứ liên quan,
http://trusovinh.net/ cũng lưu giữ chứng thư hôn phối
để giúp các linh mục quản xứ có tư liệu ghi sổ.

Trụ sở Giáo phận Vinh
32 Nguyễn Bỉnh Khiêm
Đakao, quận 1, TPHCM
Email: trusovinh@gmail.com
Phone: 08-3911-0669 (gọi trong giờ hành chính)

Linh mục phụ trách: Gioan Phạm Quang Long

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

Về ơn Cứu Độ ngoài Kitô Giáo

LTS: Cha Raniero Cantalamessa, thần học gia Phủ Giáo Hoàng trong bài nhận định liên quan đến bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần này đã đề cập đến vấn đề ơn Cứu Độ ngoài Kitô Giáo như sau:

Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta 



Cha Raniero Cantalamessa, thần học gia Phủ Giáo Hoàng
Thánh Gioan, một trong các tông đồ, thấy một người không trong nhóm các môn đệ nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ liền cấm người này làm thế. Khi ông thuật lại điều này với Chúa Giêsu, Chúa phán với ông rằng “Đừng ngăn cản người ta …vì ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39, 40).

Đây là chủ đề có một tầm quan trọng hiện nay. Chúng ta nghĩ thế nào về những người ngoại, những người ăn ở nhân lành và có những dấu chỉ của thần khí, mặc dù không tin nơi Đức Kitô và không thuộc về Giáo Hội. Họ có thể được cứu rỗi không?

Thần học đã luôn nhìn nhận khả năng, theo đó, Thiên Chúa có thể ban ơn cứu độ cho một số người theo những cách thức bên ngoài những cách thức thông thường là có đức tin nơi Đức Kitô, chịu phép rửa tội và là thành viên của Giáo Hội. 

Xác tín này đã được củng cố thêm trong thời đại tân tiến này, sau các khám phá địa lý và những tiến bộ trong khả năng truyền thông giữa các dân tộc khiến cho cần thiết phải ghi nhận rằng có vô số những con người, mà không phải lỗi tại họ, đã không hề được nghe lời công bố Tin Mừng, hay nghe trong một cách thế không phù hợp, từ những người đi chinh phục đất mới hay những kẻ thực dân lừa đảo, đến mức khó có thể chấp nhận được. 

Công Đồng Vaticanô II dạy rằng “Thánh Thần, trong một cách thế chỉ mình Chúa biết, ban cho mọi người khả năng được liên kết với mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, và do đó, được cứu rỗi” ["Gaudium et Spes – Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng" số. 22]. 

Đức tin Kitô Giáo của chúng ta đã thay đổi chăng? Không, chừng nào chúng ta tiếp tục tin vào hai điều này: Thứ nhất, Chúa Giêsu là, một cách khách quan và chân thật, đấng trung gian và đấng cứu độ duy nhất của toàn thể loài người, và rằng những ai không biết Ngài, nếu họ được cứu rỗi, đã được cứu rỗi nhờ vào Ngài và vào cái chết cứu độ của Ngài. Thứ hai, là những ai, dù không thuộc vào Giáo Hội hữu hình, nhưng có “ý hướng” khách quan về Giáo Hội, hình thành một Giáo Hội rộng lớn hơn mà chỉ có Chúa biết.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dường như đòi hỏi hai điều từ những người “ngoại”: họ không “chống” lại Ngài, nghĩa là họ không tích cực chống lại đức tin và các giá trị của đức tin, chẳng hạn, họ không tự nguyện đặt mình chống lại Thiên Chúa. 

Thứ hai, nếu họ không thể phụng sự và yêu mến Thiên Chúa, tối thiểu, họ phụng sự và yêu mến hình ảnh của Ngài, là con người, đặc biệt, những người đang cần giúp đỡ. Thật vậy, đoạn Tin Mừng tiếp tục nói về những người “ngoại” với những lời sau: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

Tuy nhiên, sau khi minh xác về tín lý, tôi tin cũng thực cần thiết để sửa đổi một số sai lầm khác: thái độ nội tâm của chúng ta, tâm lý của chúng ta như những tín hữu. Ta có thể hiểu, nhưng không thể chia sẻ, mâu thuẫn khó che đậy của một số tín hữu khi thấy đặc quyền liên quan đến đức tin vào Chúa Kitô và địa vị thành viên trong Giáo Hội của mình sụp đổ. Người ta nói: “Vậy thì là một Kitô hữu tốt có ích gì cơ chứ?”.

Trái lại, chúng ta nên vui mừng vô biên trước những khai mở mới này của thần học Công Giáo. Biết rằng anh chị em bên ngoài Giáo Hội cũng có cơ may được cứu rỗi thì còn có gì có sức giải thoát và thuyết phục về lòng quảng đại và ý chí vô biên của Thiên Chúa hơn là lời này “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2:4). Chúng ta hãy biến ao ước của Môsê thành ước vọng của chính chúng ta như đã được ghi trong bài đọc thứ Nhất Chúa Nhật tuần này: “Phải chi ĐỨC CHÚA ban Thần Khí trên toàn dân của Người!”. (Ds 11:29).

Biết như thế liệu chúng ta có nên để mọi người yên trong xác tín của họ và ngừng truyền bá đức tin nơi Chúa Kitô vì người ta cũng có thể được cứu rỗi bằng những con đường khác mà? Dĩ nhiên là không.

Nhưng điều mà chúng ta nên làm là nhấn mạnh đến lý do tích cực hơn là lý do tiêu cực. Lý do tiêu cực là thế này: “Hãy tin vào Chúa Giêsu, bởi vì ai không tin vào Ngài sẽ bị kết án muôn đời”; lý do tích cực là thế này: “Hãy tin vào Chúa Giêsu, bởi vì thật là tuyệt vời để được tin nơi Ngài, được biết Ngài, để được có Ngài kề bên như đấng cứu độ trong cuộc sống và trong giờ chết”.

Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ

Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ.
 Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha.
 Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ.
 Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha.
 Tần tảo sớm hôm, Mẹ nuôi con khôn lớn.
 Mang cả tấm thân gầy, Cha che chở đời con.
 Ai còn Mẹ, xin đừng làm Mẹ khóc.
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe không!

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

Việt Nam tôi đâu? Việt Khang



Original Video from TuoiTreYn
http://www.youtube.com/user/TuoiTreYN?feature=watch
Ca Nhac Si Viet Khang Chàng Trai Nước Việt


I would like to dedicate this English version to our young hero Viet Khang. Who is Viet Khang? Viet Khang - born Vo Minh Tri - is a young Vietnamese musician and singer in his thirties. He was arrested by the Vietnamese communist authorities December 23, 2011 just for having composed and sang two patriotic songs ("Who are You" and "" Where is my Vietnam ") emphasizing the concern of the Vietnamese people against the invasion China's gradual. During 2011, Hundreds of people took to the streets in Vietnam to protest against Chinese incursions in Vietnamese seas territorales. Ironically, several protestors were imprisoned or brutally oppressed by the Vietnamese police - without judiciare trial. Viet Khang threw into relief the tragic moments in his songs, which cost him his incommunicado detention. I call for everyone who loves freedom to join us to demand the immediate release of Viet Khang. A big thank you from our hearts!

Giáo phận Vinh: Các công trình trọng điểm đang được xây dựng



Các công trình trọng điểm đang được tiến hành xây dựng và quy hoạch lại tại Giáo phận Vinh: 
* Tòa Giám mục cho tân Giáo phận Hà Tĩnh,
* Đại Chủng viện Vinh Thanh,
* Trung tâm chăm sóc người khuyết tật Kim Lâm (Hà Tĩnh),
* Trung tâm trẻ mồ côi & mẹ đơn thân

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Lễ Chúa nhật mà phải trình báo với nhà cầm quyền

Trụ sở Giáo phận Vinh
32 Nguyễn Bỉnh Khiêm
P Đakao, quận 1, TP HCM
THƯ TRÌNH BÁO
Về ngày lễ Chúa nhật 13/5/2012
Kính gửi Ban Tôn giáo thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 09 tháng 5 năm 2012, có 10 ông bà thuộc cán bộ chính quyền các cấp đến trụ sở Giáo phận Vinh, hỏi thăm về một ngày lễ tại đây.
Ngày 10 tháng 5 năm 2012, lại có ông Vũ Huy Long, thuộc Ban Tôn giáo thành phố, và ông Bùi Thế Hùng, thuộc Phòng Nội vụ quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, có đến trụ sở Giáo phận Vinh, yêu cầu chúng tôi trình báo về ngày lễ cho doanh nhân sắp tới.
Để đáp ứng các yêu cầu trên, chúng tôi xin trình báo sự việc cụ thể như sau:
Vào hồi 17 giờ ngày 13 tháng 5 năm 2012 tại trụ sở Giáo phận Vinh, 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, P. Đakao, quận 1, TP HCM, Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp sẽ chủ sự thánh lễ cầu nguyện cho giới doanh nhân Giáo phận Vinh đang làm việc tại Miền Nam.
Thực sự đây chỉ là một ngày lễ Chúa nhật bình thường, ngoại trừ một điều là dành riêng cho giới doanh nhân mà thôi.
Số lượng người tham dự thì chúng tôi không được biết; dầu vậy, có thể ước tính là không quá 100 người.
Chúng tôi xin kính báo để quí vị được rõ.
Sài Gòn ngày 11/5/2012
Lm Phạm Quang Long
Giám đốc trụ sở

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Câu chuyện về hai vị thiền sư

Có một vị thiền sư trú trong túp lều tranh ở trên núi, một buổi tối khi đi thiền hành trở về, nhìn thấy một tên trộm đang chiếu cố túp lều tranh của mình nhưng tìm không được vật gì cả. Ngài bèn cởi chiếc áo ngoài đang mặc trên người và đứng ngoài cửa đợi tên trộm ra, vì ngài sợ làm kinh động tên trộm.
Tên trộm vừa quay ra thì gặp thiền sư, trong lúc tên trộm hốt hoảng vị thiền sư liền nói: “Anh bạn! Đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, tôi không đành lòng để anh về tay không, đêm khuya rồi, khoác chiếc áo này mà về cho đỡ lạnh. Nói xong ngài cầm chiếc áo khoác lên thân tên trộm. Tên trộm xấu hổ, cúi đầu rồi chạy thẳng xuống núi không dám nhìn lại.

Thiền sư nhìn dáng tên trộm khuất dần trong núi rừng mờ mịt, không ngừng thương cảm và nói: “Rất đáng thương, tôi muốn tặng cho anh cả vầng trăng để chiếu sáng con đường cho anh xuống núi”.

Vài hôm sau, khi thiền sư đang mở to đôi mắt nhìn ánh bình minh xuất hiện, thì nhìn thấy chiếc áo mà ông khoác lên thân tên trộm mấy hôm trước đó được xếp rất ngay ngắn đặt trước cổng, thiền sư vui vẻ nói: “ Cuối cùng thì ta cũng đã tặng anh ta cả vầng trăng sáng rồi”.

Lại có câu chuyện khác cũng tương tự. Trong thiền viện của thiền sư Tiên Nhai, có một vị học tăng rất ham chơi, vị này không chịu nổi cái cảnh vắng lặng yên bình của chốn thiền môn. Vào những buổi tối vị tăng sinh này thường ra vách tường sau chùa, đặt một cái ghế để leo qua tường ra bên ngoài chơi.

Sau khi thiền sư biết được, ngài không nói với ai. Một lần, vị tăng sinh này trèo tường trốn đi chơi, ngài đi theo phía sau và đem chiếc ghế để qua một bên rồi ngồi vào chỗ đó đợi vị học tăng trở về. Đêm khuya vắng vẻ, vị học tăng trở về, không biết chiếc ghế đã bị di chuyển nên vẫn leo qua vách tường và thò chân xuống ghế như mọi khi để vào chùa, nhưng khi vừa đặt chân xuống thì cảm thấy chiếc ghế dưới chân mình sao mềm mại, là lạ, cúi xuống nhìn thì hoá ra mình đang đứng trên vai vị thiền sư thầy mình. Lập tức vị học tăng hồn bay phách tán quỳ xuống nói không ra lời. 

Thiền sư liền đỡ vị học tăng đứng lên và nhẹ nhàng nói: “Đêm khuya sương nhiều, cẩn thận chứ ướt lạnh, hãy nhanh vào phòng nghỉ ngơi”.

Sau khi về phòng vị tăng sinh cứ phập phồng lo sợ không yên, trắng đêm không ngủ, lo sợ thiền sư sẽ trách phạt mình trước mặt đại chúng. Nhưng sự việc thì ngược lại, cứ ngày ngày trôi qua, thiền sư không nhắc đến chuyện, cũng không nói cho ai biết. Vị tăng trẻ tự trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn vô cùng, từ đó về sau không dám trốn ra ngoài chơi mà quyết chí tu học, cuối cùng trở thành một vị tăng nổi tiếng đương thời.

Nếu bạn là thiền sư bạn sẽ xử lý thế nào với hai sự việc như thế? Tôi nghĩ, trong câu chuyện thứ nhất. Những người bình thường thì sẽ cùng tên trộm vật lộn hoặc sẽ la lớn lên “trộm, trộm…”. Câu chuyện thứ hai, đối những với người bình thường thì sẽ đem lỗi của vị học tăng nói trước mặt mọi người, sau đó sẽ có hình thức trách mắng quở phạt riêng cho vị ấy.

Nếu làm như vậy kết quả sẽ như thế nào nhỉ? Tôi nghĩ có thể xảy ra hậu quả thế này, câu chuyện thứ nhất: tên trộm sẽ đánh bị thương hoặc giết chết vị thiền sư hoặc có thể vị thiền sư đánh tên trộm bị thương và tên trộm sẽ trở lại trả thù thiền sư vào một ngày gần đó. Câu chuyện thứ hai, sau khi vị học tăng bị quở phạt trước mọi người sẽ cảm thấy rất xấu hổ với bạn bè, trong lòng buồn phiền thối chí tu học cuối cùng trở thành con người bình thường, và có thể từ bỏ lối sống thiền môn.

Hai vị thiền sư này xử sự không giống những người bình thường như chúng ta, mà lấy sự khoan dung đại trí, đại bi để thay đổi một tên lãng tử thành vị danh tăng. Con người không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng khoan dung. Im lặng mà hơn cả to tiếng trách móc đây là phương pháp giáo dục tốt nhất. 

Khoan dung là một phẩm chất đạo đức tốt, khoan hồng tha thứ lỗi cho người giống như ngọn gió mùa xuân mang mưa xuân đến thấm nhuần cây cỏ làm vạn vật thêm xanh tươi. Khoan dung còn hơn cả vàng, khoan dung là một phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người chúng ta.


Tác giả: Văn Đan
Người dịch: Như Nguyện

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Các tác phẩm viết về cha

Các tác phẩm Viết Về Cha đoạt giải cuộc thi “Ơn Cha Nghĩa Mẹ”

I. Thể loại Thơ:

1. Giải Nhất: “Tình Cha” của tác giả Anna Nguyễn Thị Huỳnh, bút hiệu Huỳnh Nhi.

TÌNH CHA

Cây cao bóng cả vươn chồi
Chắn che giông bão suốt đời cho con
---
Băng rừng, vượt biển, lên non
Đem về sự sống ngọt ngon ấm lòng
Nuôi con vun đắp cây trồng
Mầm xanh đứng vững theo dòng thời gian
---
Lớn lên nguyện ước con ngoan
Đức tài ghi khắc toả ngàn tiếng thơm
Dù cho vắt kiệt sức hơn
Cha luôn bấm chịu thoả cơn sóng đời
---
Cốt cho con được nên người
Và mong nhìn thấy nụ cười của con
Lời êm thấm dạy con khôn
Việc hay cha chỉ, gọt mòn mấu sai
---
Đường đời đầy dẫy chông gai
Nương theo chân bước, một mai giúp đời
Nhìn ngay làm thẳng hơn người
Hy sinh khó nhọc cao ngời Tình Cha.
---
Nặng nề khó nhọc cha mang
Để cho con được huy hoàng đời con
Đất trời như xẻ làm đôi
Cha đi vĩnh viễn cha thôi không về.


2. Giải Nhì: “Cha Tôi” của tác giả Giuse Phạm Văn Ninh, bút hiệu Song Ninh.

CHA TÔI

Đã qua rồi những ngày đông giá lạnh
Lầm lũi dáng ba trong đêm tối ảo mờ
Đôi bàn tay buốt nồng cơn gió Bấc
Hạt mưa phùn run rẩy giữa cơn mơ…
---
Tóc cha bạc từ mùa rơm thành khói
Nước sông quê loang đục đón lũ về
Cha trằn trọc từng đêm dài u tối
Xót quặn lòng tỉnh thức giữa cơn mê…
---
Mẹ đi từ mùa hoa cau rụng gốc
Con lớn lên trong nước mắt tủi buồn
Cha ngày ngày bán mặt vào ruộng đất
Mong đến ngày con cái trưởng thành hơn…
---
Sài Gòn ẩm ương giao mùa mưa rồi nắng
Bon chen thị thành chẳng chừa lối cho con
Đêm giật mình bùi ngùi nghe mưa ướt
Nghĩ thương cha nước mắt bỗng khóc dồn…


3. Giải Ba: “Chiếc Bàn Đèn” của tác giả Giuse Nguyễn Huy Thục, bút hiệu Tả Lam.

CHIẾC BÀN ĐÈN

Con chẳng có ấn tượng gì về Cha
ngoài Chiếc Bàn Đèn
Nó được thắp lên
mỗi ngày bảy lượt
Cha đốt đời mình trên ngọn lửa xanh
với những làn khói mang hình hài quỷ dữ
Ôi! Sao thế?
Một cuộc đời, tệ vậy, Cha ơi!
---
Con nghĩ dại rằng mình có thể
Nướng cuộc đời trong Á phiện như cha ông
Bởi ai làm rồi ra người đó chịu
Thế hệ sau nối tiếp thế hệ sau
---
Nhưng rồi con choàng tỉnh, gạt cơn mê
Lấy đời tu làm giá đỡ cho Bàn đèn
Trong suy tư con tự mình thầm nhủ
Chiếc Bàn Đèn là Thánh Giá Chúa trao ban


Viết tặng người Cha tội lỗi

4. Giải khuyến khích: “Tập Viết” của tác giả Matta Võ Ngọc Bảo Châu, bút hiệu Thiều Châu 

TẬP VIẾT

Nhớ ngày xưa con vào lớp một
Bước ngỡ ngàng sợ lắm ba ơi!
Cô giáo hiền cầm tay con tập viết
Không ! Con chỉ chờ viết với ba thôi!
---
Ngày của ba miệt mài quay quắt
Việc cuốc cày đồng áng nương xanh
Mong giấc ngon đêm tối yên lành
Con kì kèo : Ba ! tập cho con viết!
---
Dẫu mệt nhoài vì nương vì rẫy
Nhưng bàn tay vẫn nắm bàn tay
Con mê say những dòng ngay ngắn
Trong tay ba đen đủi nắng trời
---
Dòng đầu tiên con tự viết thành lời
Là tỏ tình: “Con yêu ba lắm”
Những điểm mười trên giấy hồng tươi thắm
Con một nửa - còn một nửa công ba
---
Ngày tháng qua ký ức chẳng phai mờ
Tấm lòng ba trong vần thơ nét chữ
Vẫn biết rằng bên đời cô lữ
Thiếu một bàn tay uốn nắn gầy gò
---
Con chẳng sợ chi bóng dáng ba nhạt nhòa
Trang vở cuộc đời không ba nâng đỡ
Viết một mình lòng con luôn ghi nhớ
Ba sống hoài trong nét chữ con thơ


5. Giải khuyến khích: “Giàn Mướp của Bố” của tác giả Lucia Vũ Thị Thanh Thủy, bút hiệu Vũ Thủy.

GIÀN MƯỚP CỦA BỐ 

Giàn mướp nhỏ ngang tầm em với
Lá loăn xoăn hoe nắng ngọt ngào
Đủ che nắng một khoảnh sân chập chõm
Bé nhảy dây chơi góc cuối vườn
Mướp vươn mình đùa vui trong nắng
Những nụ hoa xinh xắn bướm liệng bay
Hoa mướp vàng, bướm vàng bay lúng liếng
Góc vườn quê hớn hở lá reo vui. . .
---
Một buổi sáng, trái mướp dài thon thả
Trả cho đời hương vị của cần lao
Bao công khó bố vun trồng chăm sóc
Em hái lấy những ngọt ngào trong trẻo
Vị đồng quê thơm mát bát canh ngon
Trái mướp non trên giàn đung đưa khẽ
Lẽ ở đời em học sẽ không phai
Khi ăn quả nhớ kẻ dầm sương dãi nắng. 


Nhớ về giàn mướp xưa kia của bố, mỗi sáng được ngắm nhìn những trái mướp đang lớn dần thật là thú vị biết bao. 

II. Thể loại Văn:

1. Giải Nhất: “Cha Tôi” của tác giả Linh mục Phaolô Trương Hoàng Phong, Giáo phận Cần Thơ


CHA TÔI

“Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước nguồn chảy ra
Một lòng thờ Mẹ kính Cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.


Từ nhỏ, cha tôi đã bị bệnh. Cha không nói được và cũng không nghe được. Bệnh câm điếc đã vô tình theo cha suốt cả cuộc đời. Mọi người trong gia đình đều thương cha vì cha bệnh tật, lại là đứa con út, là người nhỏ nhất trong nhà. Khi lớn lên, ông bà nội cho cha đi học ở trường Câm Điếc Lái Thiêu. Sau biến cố năm 1975, cha phải trở về với gia đình. Tình cờ, cha gặp mẹ, và hai người đã nên duyên. Gia đình tôi có bốn anh em, một trai và ba gái. Điều lạ lùng là cả bốn anh em chúng tôi không ai mắc bệnh giống cha. Mặc dù cha tôi không nói được và không nghe được nhưng người đã dạy dỗ tôi rất nhiều điều trong cuộc sống.
Cha bị bệnh nhưng tính tình rất điềm tĩnh và bình thản. Rất ít khi tôi thấy cha khó chịu hay bực bội với con cái. Cha sống rất hiền lành. Ngôn ngữ của cha là những cử điệu của hai bàn tay. Cha biết viết. Chữ không đẹp nhưng dễ đọc. Khi người khác không hiểu hoặc khi đi xưng tội, cha thường viết vào giấy để chia sẻ nỗi lòng và nói lên những tâm tình thầm kín của riêng mình. 
Chúa ban cho cha tôi có được sức khoẻ rất tốt, có nhiều khả năng. Người làm việc chân tay rất giỏi. Cha thường làm việc nhà, làm ruộng, và chài cá rất giỏi. Ngoài công việc nhà, cha còn tham gia những công tác của Họ Đạo. Cha làm việc rất nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm. Có lẽ vì quá vất vả nên bây giờ chân tay của cha đã chai cứng, nứt nẻ. 
Rồi tôi phải đi học xa. Mỗi lần về thăm nhà, cha rất mừng. Người đến bên cạnh và ra dấu hiệu bằng tay để hỏi tôi được nghỉ học bao nhiêu ngày. Đến lúc trở lại trường, cha luôn ra hiệu cho mẹ lấy tiền cho tôi. Lần nào, cha cũng làm như thế. Có khi hai cha con chỉ nhìn nhau mà không biết nói gì, không biết tâm sự như thế nào, vì cha con tôi chỉ có thể hiểu ý nhau trong những chuyện đơn giản và thực tế mà thôi. Khi biết tôi muốn đi tu, cha rất ủng hộ. Ngày tôi được thụ phong linh mục, cha rất vui và hạnh phúc!
Bất ngờ, mẹ tôi bệnh nặng, phải vô hoá chất để điều trị. Thuốc làm mẹ rụng tóc và đau đớn. Về thăm mẹ, tôi thấy cha rất buồn và lo lắng. Các em kể lại: cha ra dấu là đừng đi bệnh viện nữa, vì đi nên mới rụng tóc và mệt mỏi như thế. Tự nhiên, lòng tôi đau nhói. Hai mắt cay xè. Tôi vội đi nơi khác để cố nén cảm xúc của mình. Lúc đó, tôi thương mẹ và thông cảm cho cha. Tôi phải nói như thế nào để cho cha hiểu được bệnh tình của mẹ đây? Sau một thời gian điều trị, Chúa thương cho mẹ tôi được bớt bệnh. Gia đình tôi rất vui. Nhưng không bao lâu, em gái tôi lại phát bệnh khá nặng, phải chạy chữa nhiều nơi, tốn nhiều tiền nhưng không thoát được thần chết. Em ra đi lúc còn rất trẻ, để lại cho chồng hai đứa con còn nhỏ dại. Khi đó gia đình tôi rất buồn, đặc biệt tôi thấy cha tôi khóc rất nhiều. Cha rất đau khổ vì mất đi đứa con gái thân yêu. 
Cha tôi như thế đó! Người không nói được, không nghe được, nhưng tâm hồn lại dạt dào tình cảm. Cha thường biểu lộ tình thương bằng hành động, không cần lời nói. Cha luôn lo lắng cho gia đình, cho con cái. Cha bị bệnh phần xác nhưng tâm hồn rất mạnh khoẻ. Con tim của cha luôn chan hoà hơi ấm tình yêu. 
“Cám ơn Chúa đã ban cho con một người cha như thế! Cám ơn cha đã yêu thương và chăm sóc cho anh em chúng con.” Thỉnh thoảng khi có dịp về thăm gia đình, tôi thấy cha gầy hơn và yếu hơn. Thấy cha già nên lòng tôi cũng ngậm ngùi, lo lắng. Nguyện xin Chúa thương ban cho cha được nhiều sức khoẻ và bình an trong cuộc sống!

2. Giải Nhì: “Cho Con Một Lý Do Đi Ba!” của tác giả Maria Nguyễn Hoàng Phương Khanh, bút hiệu Bình Minh.


CHO CON MỘT LÝ DO ĐI, BA!


Đã từ lâu lắm rồi, tôi không có ý niệm gì về hình ảnh người cha, tất cả đã được chôn chặt trong quá khứ. Chẳng muốn khơi gợi nhưng sao hôm nay bỗng dưng quá khứ chẳng mấy gì tốt đẹp ấy chợt ùa về trong tôi. Nhắc đến cha, có lẽ trong tâm tưởng của nhiều người, cha là hình ảnh của cây tùng, cây bách; yêu thương, che chở và là chỗ dựa vững chắc. Tôi cũng nhớ đến cha nhưng với một cảm xúc khác. Với vị thế là một người con, tôi viết lên những dòng này đây thật sự chẳng để trách cứ ba; chỉ mong được gửi gắm chút thông điệp đến những người đang và sẽ làm cha: “Trước khi làm điều gì, xin hãy dừng lại một chút suy nghĩ để đừng gây đổ vỡ một mái ấm gia đình, để lại vết thương lòng ít ra là cho những đứa con…”
Tuổi thơ tôi là những ký ức buồn, những kỷ niệm về cha khá mờ nhạt. Năm tôi lên bốn, ba mẹ tôi chia tay. Lúc đó tôi còn quá nhỏ, chưa đủ để hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi chỉ biết ba mẹ tôi không còn sống chung với nhau nữa. Tuy rất đau lòng nhưng dường như ba mẹ tôi chia tay nhau khá “nhẹ nhàng”, không giằng co, không day dứt, không níu kéo. Có thể nói là một cuộc chia tay trong hoà bình. Mẹ dẫn tôi về nhà ngoại. Ban đầu, mọi thứ còn mới mẻ, lạ lẫm. Sau vài tháng, tôi dần quen với môi trường mới nên tất cả cũng trở nên ổn định.
Những tưởng cuộc sống như thế êm đềm trôi, thì bất chợt một ngày ba tôi qua nhà ngoại dắt tôi về. Dù gì đi nữa thì cũng là tình nghĩa vợ chồng bấy lâu nay, cùng với mong muốn tốt đẹp cho tương lai của tôi, thế là gia đình tôi giảng hoà sau một thời gian đường ai nấy đi. Nhưng có lẽ đây là bước khởi đầu cho sự xáo trộn mới của cuộc sống.
Nếu câu chuyện kết thúc ở đây thì quả là một câu chuyện cổ tích với một kết thúc có hậu, tôi lại có ba và mái ấm gia đình lại được hàn gắn. Nhưng cuộc đời vốn dĩ không bằng phẳng và bình yên như thế. Hạnh phúc một lần nữa vuột khỏi tầm tay, đến rồi đi, có rồi không, dường như chỉ là một tuồng ảo hoá. Cho đến một ngày “lịch sử lặp lại”, sóng gió lại ập đến với gia đình tôi nhưng lần này nó nặng nề hơn rất nhiều, không hề “nhẹ nhàng” như trước bởi lẽ vết thương lòng của ngày xưa lại được khơi gợi. Mẹ tôi đã khóc rất nhiều, khóc hết nước mắt, chỉ mong sao ba tôi suy nghĩ lại để mọi chuyện đừng xảy ra như ngày xưa nữa, nhưng vô ích! Ba tôi đã ra đi, sự ra đi không chút luyến lưu, không chút bận lòng! Tôi biết lúc này đây, mẹ tôi đã chạm đến tận cùng của nỗi đau…
Tựa như một giấc chiêm bao, tự hỏi lòng điều gì đang xảy ra. Ba ơi, ba mong con ra đời mà, sao lại nỡ bỏ con mà đi như vậy? Hụt hẫng, trống rỗng! Không lẽ mọi sự gầy dựng bấy lâu nay giờ chỉ được kết thúc bằng một chữ ký thôi sao? Đơn giản đấy, nhưng cũng thật xót xa dường nào! Bao nhiêu câu hỏi trong tôi nhưng nào có câu trả lời. Khóc như chưa bao giờ được khóc, đêm nào nước mắt mẹ cũng tuôn trào, chờ mong tiếng xe của ba đi làm về nhưng vô vọng. Âm thanh thân thương này giờ chỉ còn đâu đó trong kỷ niệm, trong dĩ vãng xa xôi. Sự thật phũ phàng đằng sau những điều tưởng chừng như tốt đẹp bấy lâu nay, chỉ có người trong cuộc mới có thể hiểu thấu được nỗi đau quá lớn này! Có lẽ trong những mất mát của con người, mất người thân là nỗi đau lớn nhất. Chông chênh, đau đớn và cả mất phương hướng là cảm xúc của những người ở lại. Vượt qua điều này quả không dễ dàng chút nào. Đêm chập chờn, ngày thức giấc cố đối diện với thực tế, cố kiềm nén cảm xúc, nhưng mỗi khi ai nhắc đến ba thì mẹ tôi lại nghẹn ngào. Mặc dù không muốn thế nhưng sao nước mắt vẫn cứ rơi…
Nhưng rồi, thời gian vẫn là phương thuốc chữa lành vết thương lòng hữu hiệu nhất. Lâu dần, khái niệm về cha trở thành dĩ vãng để có ai đó nhắc đến, tôi cũng có thể bình thản với thực tại: Tôi không có cha! Bất kể trái tim có tan vỡ, cuộc sống cũng sẽ chẳng dừng lại và vẫn vô tình, quy luật cuộc sống là thế. Nuốt nước mắt vào trong, mẹ con tôi tiếp tục sống. Người ta thường nói: “Con không cha như nhà không nóc”. Quả thế, một mình mẹ tôi gánh cả trách nhiệm của một người cha. Tất cả mọi thứ do một tay mẹ quán xuyến với bao khó khăn chồng chất. Dần dần, cuộc sống cũng đi vào quỹ đạo vốn có của nó. Mẹ là người duy nhất thương yêu, dạy dỗ và đồng hành cùng tôi trong từng chặng đường mà tôi đi qua: Cấp hai, cấp ba cho đến giảng đường đại học… Mẹ cho tôi sự mạnh mẽ, phải sống thật kiên cường, kiên cường như loài cỏ dại để có thể đón nhận hạnh phúc lẫn khổ đau một cách nhẹ nhàng nhất.
Nhớ những lần ba tôi “ghé” qua dúi vào tay tôi khoản tiền trợ cấp, may mắn thì hỏi thăm vài câu qua loa rồi vụt đi. Tôi thoáng buồn và chạnh lòng! Tiền thì cũng cần cho cuộc sống đấy, nhưng đối với tôi lúc này, tiền sao bạc quá! Lẽ ra, ba có thể cho con nhiều hơn thế nữa mà. Ôi! Con thuyền gia đình tôi ngày nào với người chèo, người lái, giờ thì mỗi nơi một mảnh. Ba ơi, có day dứt, hối tiếc điều gì không hả ba, dù chỉ là một chút? Nước mắt như đã cạn, thoáng nghĩ, một chút buồn, để rồi cũng xếp vào trong ký ức mà thôi. 
Một tương lai tươi sáng chỉ có thể đứng lên trên một quá khứ đã lãng quên. Cuộc sống thăng trầm với những thử thách, chông gai tưởng chừng như bế tắc không thể vượt qua; nhưng cuối cùng điều kỳ diệu cũng đã đến, mọi thứ cũng đâu vào đấy. Nếu không có những biến cố đó, không có sự mất mát đó làm sao trui rèn cho tôi nghị lực, sự mạnh mẽ, làm sao tôi có thể vượt lên chính mình? 
Tôi thầm cảm tạ Chúa! Tôi tin vào Tình Yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, tôi tin Ngài sẽ không để tôi quỵ ngã.

3. Giải Ba: “Bao La Tình Cha” của tác giả Maria Nguyễn Nữ Thùy Dương 


BAO LA TÌNH CHA


“Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha” 


Câu nói này tôi đã được nghe nhiều nhưng tôi chỉ thật sự cảm nghiệm ý nghĩa của nó khi tôi rời xa mái ấm gia đình, xa ba mẹ, xa các em để bước vào một cuộc sống mới nơi thành thị xa lạ. 
Nơi khung trời mới này cuộc sống với nhiều tranh chấp, bon chen khiến tôi thèm khát tình cảm gia đình, những mơ ước về một mái ấm có ba mẹ cứ ùa về trong tâm trí tôi. Tôi chợt nghĩ về ba tôi- người đã dạy cho tôi cách sống bao dung không bằng lời nói nhưng bằng hành động, và đặc biệt là bằng một niềm tin tuyệt đối vào Mẹ Maria.
Lúc nhỏ tôi luôn nghĩ ba là một người khó tính, nghiêm khắc, lạnh lùng. Chính vì lúc nào cũng suy nghĩ về ba mình như vậy nên tôi không bao giờ nói chuyện thân mật với ông. Tôi luôn coi việc ông vất vả lao nhọc lo cho chúng tôi là quy luật, là lẽ tất nhiên nên tôi không chút mảy may xúc động mỗi khi thấy ông bệnh nặng nhưng vẫn cố gắng ra ruộng, chứ nhất định không chịu nghỉ ngơi.
Tôi luôn trách ba tôi “khờ” mỗi khi thấy ông vất vả lo giấy tờ không công cho người ta, việc nhà không lo cứ lo việc thiên hạ! (mà thực ra ba tôi đâu có bỏ bê việc nhà). Những lúc nghe tôi trách móc ba tôi vẫn chỉ đáp lại bằng điệp khúc: “Sau này con sẽ hiểu, ba làm tất cả chỉ vì các con mà thôi!”
Ba tôi gia nhập quân đội từ khi còn rất trẻ, chiến tranh đã cướp đi của ba tôi một con mắt, và mỗi khi “trái gió trở trời” là ba tôi lại bị những cơn đau nhức do vết thương từ chiến tranh hành hạ.
Vì thương tật như vậy nên ba tôi được lãnh lương dành cho thương binh hằng tháng, thế nhưng mỗi khi lãnh lương, thay vì mua đồ bồi dưỡng cho mình ba dành tất cả để mua sắm cho chúng tôi, ông luôn nói: “Ba ăn gì cũng được chỉ cần nhìn các con vui là đủ rồi!” Không chỉ lo cho chúng tôi về thể xác, mỗi ngày ông đều “bắt” chúng tôi dự lễ Misa và quãng đường đi bộ từ nhà tôi đến nhà thờ là giờ “huấn đức” của ba tôi (hồi đó tôi thấy rất khó chịu và muốn bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở đạo đức của ba tôi nhưng sau này nghĩ lại tôi thấy những lời dạy dỗ mà tôi cho là chói tai đó đã giúp ích cho tôi rất nhiều). 
Ba tôi thương con là vậy, nhưng cách ông giáo dục chúng tôi cũng thật “kinh khủng”, tôi luôn bị ám ảnh về những roi đòn mà ông giáng xuống mỗi khi chúng tôi sai phạm, những lúc đó tôi quên sạch những điều tốt ông đã làm cho chúng tôi, tôi đã thầm ước tôi có một người cha hiền lành hơn, yêu thương chúng tôi nhiều hơn. Tôi cứ luôn nghĩ ba không hề thương chúng tôi - nếu thương thì đâu thể “ra tay” với chúng tôi mạnh như thế?!?
Có lẽ tôi sẽ không bao giờ thay đổi suy nghĩ ấy cho đến một ngày, ngày tôi bỏ nhà ra đi. Lang thang phiêu bạt hết nhà đứa bạn này đến đứa khác, vài ngày đầu bọn bạn còn tiếp rước, đến bốn năm hôm sau, đứa nào cũng tỏ ra khó chịu! Tôi biết vậy nên cố tìm việc làm để tự nuôi thân, nhưng tìm việc không đơn giản như tôi nghĩ, công việc tôi cảm thấy thích hợp thì lương không đủ sống; còn công việc mang lại cho tôi món tiền kha khá đủ trang trải thì tôi lại không đủ khả năng để làm. Thất vọng. Chán nản. Tôi nghĩ đến việc khấn xin Đức Mẹ cho tôi đủ can đảm trở về (lòng sùng kính Đức Mẹ đã được ba tôi gieo vào lòng chúng tôi từ bé tí nên dù hư hỏng, tôi cũng không quên Mẹ). Sau nhiều ngày suy nghĩ cầu nguyện, tôi liều gọi điện thoại về nhà, lòng hồi hộp khi giọng nói đầu dây bên kia cất lên! Nhận ra tiếng ba, tôi khẽ nói: “Con đây, Ba!” Tôi tưởng tượng ông sẽ cho tôi một “bài trường ca”, không ngờ ông chỉ đáp ngắn gọn: “Đọc địa chỉ nơi ở đi!” Trên đường chở tôi về, ông cũng không hề cất lên nửa lời. Sự im lặng của ông khiến tôi ngạc nhiên vô cùng!
Sáng hôm sau, để cám ơn Đức Mẹ , tôi xách nước lau lại bức tượng Mẹ, tình cờ tôi phát hiện một hộp thư được đặt dưới chân Đức Mẹ, tò mò tôi mở ra xem: Là nét chữ của ba! “Mẹ Maria ơi, con rất buồn vì đã không chu toàn trách nhiệm của một người cha, con đã không biết cách thể hiện tình yêu của con đến các con của con khiến chúng phải phiền lòng. Dù phải đánh đổi bất cứ điều gì cũng được, con chỉ xin Mẹ gìn giữ, đưa con của con trở về nhà bình yên. Xin Mẹ soi sáng để con của con biết rằng: lòng con cũng đau lắm sau mỗi lần sửa phạt con cái! Không biết những ngày con của con rời xa gia đình nó có được một chỗ nghỉ ngơi, có ai cho nó ăn uống hay phải lang thang như trẻ bụi đời. Càng nghĩ con càng thấy thương con của con và buồn cho cách giáo dục con cái của con. Mẹ ơi, Mẹ cứ trút hết những đau khổ mà con của con đang chịu lên người con… ” Tôi không thể đọc đến cuối vì nét chữ đã nhòe đi bởi những giọt nước mắt rơi tự do từ khóe mắt tôi. Thì ra tôi đã hiểu lầm ba! Gấp mẩu giấy lại đặt vào hộp thư (tôi gọi là hộp thư vì trong đó ba tôi viết rất nhiều), tôi chạy đi tìm ba. Hôm đó, không biết sức mạnh từ đâu mà tôi đã có thể chạy một đoạn đường dài từ nhà tôi tới ruộng lúa nơi ba đang làm. Tôi ôm chầm lấy ba và khóc, khóc thật nhiều! Trong tiếng nấc nghẹn, tôi nói với ba tôi: “Ba ơi, con sai rồi!” Ba vỗ nhẹ vào vai tôi, nhìn vào mắt ông, tôi thấy mắt ông ướt nhòe - lần đầu tiên tôi nhìn thấy ba tôi khóc! Khoảng thời gian sau đó là thời gian hạnh phúc nhất nhưng cũng ngắn ngủi nhất của tôi trong gia đình. Chỉ đúng một tháng sau ngày tôi “làm hòa” với ba tôi là tôi đã phải khăn gói lên Thành phố để bắt đầu tương lai mới, không còn cơ hội để ở bên chăm sóc ba nữa! Ngày tôi lên đường, ba với đôi mắt buồn, tiễn tôi lên đường kèm theo lời nhằn nhủ ngắn gọn: “Ráng sống cho xứng là một CON NGƯỜI và nhớ không quên ĐỨC MẸ nghen con!”
Giờ đây, giữa sóng gió cuộc đời tôi luôn nhớ về ba, nhớ những lời khuyên dạy của ba và đó chính là động lực để tôi vươn lên trong cuộc sống. 
Cảm ơn Ba, cảm ơn vì cách sống của Ba, cảm ơn vì “Ba đã làm tất cả chỉ vì chúng con mà thôi!”

4. Giải Ba: “Nỗi Lòng của Ba” của tác giả Lê Đăng Khoa


NỖI LÒNG CỦA BA


Do chiến tranh nên Ba tôi phải rời xa gia đình ở Huế trôi dạt vào miền Tây sông nước sinh sống. Những năm sau giải phóng, miền Tây đìu hiu, xơ xác. Nơi đất khách quê người, một mình Ba đơn độc tìm kế sinh nhai. Ba tôi xin vào làm cho một chủ lò mía đường tại Vĩnh Long. Nhờ tính tình hiền lành, cần cù, siêng năng và thông minh nên Ba được ông chủ nhận làm con nuôi, dạy cho cách kết đường cát trắng và đứng quản lý lò đường.
Tại đây, Ba vừa làm vừa dạy chữ và dạy võ cho các con của gia đình này. Hồi ấy Ba là thần tượng của họ. Mọi người đều khen Ba là người toàn vẹn, văn võ song toàn. Có lẽ Vĩnh Long là quê hương thứ hai của Ba tôi, vì nơi đây, Ba gặp Mẹ! Hai người lấy nhau. Bên gia đình Mẹ tôi nghèo lắm, lại con đông. Tài sản ra riêng của Ba và Mẹ là một chiếc ghe nhỏ. Khó khăn ngày càng chồng chất khi ba chị em tôi lần lượt ra đời. Thời phát động kinh tế mới, Vĩnh Long không làm lò mía đường mà chuyển sang kinh doanh lương thực. Vốn là là thợ kết đường nên Ba tôi thất nghiệp. Gia đình tôi sống trên một chiếc ghe nhỏ lênh đênh như đám lục bình trên sông, không biết trôi dạt về đâu! Tha phương cầu thực vài năm, khi chúng tôi lớn lên cần phải đi học nên Ba tôi quyết định dời gia đình về huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu lập nghiệp. Hồng Dân của hai mươi năm về trước là một vùng đất hẻo lánh không người, nước mặn, đất phèn. Nơi đây, gia đình tôi được một người bác thương tình cho ở tạm một căn chòi nhỏ. Tội cho Ba lắm, một mình Ba phải làm để nuôi cả gia đình. Tôi còn nhớ như in, một đêm mưa rất to, căn chòi bị dột nát, Ba phải đứng căng tấm cao su che cho vợ và các con ngủ suốt đêm… Cuộc sống tuy vất vả, khó khăn, nghèo khổ nhưng gia đình tôi luôn đầy ấp tiếng cười và hạnh phúc! Ngày mà chị em tôi được đi học, gánh nặng ngày càng đè nặng lên đôi vai đã chai sạm vì năm tháng của Ba. Do sức khỏe có hạn nên Mẹ chỉ giúp Ba lo cơm nước và chăm sóc con hằng ngày. Trong tâm trí của chị em tôi, Ba luôn là một hiền phụ. Ba vừa làm kiếm tiền nuôi gia đình, vừa dạy chị em tôi học. Ba là người thầy đầu tiên dạy chị em tôi viết chữ. Để bù đắp lại công ơn Ba Mẹ, chúng tôi đều ngoan và học rất giỏi. Có những lúc gần như cả gia đình phải gục ngã, nhưng với ý chí và sự cần cù, chịu khó của một dân xứ Huế, Ba đã vực kéo gia đình đứng dậy. Một năm gia đình tôi phải di dời chỗ ở đến năm hoặc sáu lần. Do ở đậu, ở nhờ nên người ta muốn đuổi lúc nào cũng được. Rồi cộng thêm các lò mía đường nơi Ba đang làm chuyển sang kinh doanh xay xát lúa gạo nên Ba lại thất nghiệp. Lúc đó, chị em tôi định nghỉ học để nhẹ bớt gánh nặng nhưng Ba không chấp nhận. Ba nói: “Nhà mình tuy nghèo, nhưng các con thấy đó, do Ba học giỏi nên vẫn nuôi và cho các con đi học đến bây giờ. Vì thế, hãy xem Ba là tấm gương mà cố gắng học. Sau này các con sẽ có cuộc sống tốt hơn”.
Những năm chị em tôi học đại học phải sống xa nhà thì kinh tế gia đình tôi thức sự kiệt quệ. Ba và Mẹ phải ra chợ bán trái cây kiếm tiền mà gửi cho chúng tôi ăn học. Ba tôi giỏi lắm! Cả ngày ngồi ngoài chợ bán hàng, tối về Ba nhận dạy kèm môn Toán, Lý tại nhà. Sở dĩ như thế vì Ba không muốn quên kiến thức phổ thông và mong muốn kiếm thêm ít tiền để lo cho chúng tôi tốt hơn. Hằng ngày, Ba phải xâu từng chùm nhãn, chùm chôm chôm để bán. Công việc đó thường đòi hỏi sự tỉ mỉ của người phụ nữ nhưng Ba vẫn làm một cách chuyên nghiệp. Ba tôi là thế đó. Bất cứ công việc nào cũng làm được.
Nhưng có lẽ điều làm cho Ba tôi khổ tâm và nhiều đêm mất ngủ là nỗi lòng của một người con xa xứ, luôn ngóng trông về xứ Huế - nơi đó có Ba Mẹ và các em của mình. Không biết mọi người ra sao nữa, còn sống hay đã mất hết tất cả vì chiến tranh?!? Rất nhiều câu hỏi cứ luôn luôn hiện trong đầu, tra tấn Ba hằng ngày như thế. Tâm trạng đó cứ lớn dần lên theo năm tháng, nó như một cục bướu đeo mãi mãi theo Ba suốt cuộc đời. Các bạn biết đấy, dân xứ Huế rất nặng về tình cảm gia đình. Cứ mỗi đợt xuân về, đêm giao thừa là lúc Ba tôi nhớ quê hương da diết. Trong giây phút thiêng liêng này Ba luôn cầu nguyện cho gia đình ở Huế được bình an:
“Đêm đón giao thừa xứ Hồng Dân
Chợt buồn nhớ Huế dạ bâng khuâng
Ba mươi năm lẻ chưa về được
Bạn lòng ơi hỡi biết cho chăng…”

Vâng, ba mươi bảy năm, tin tức nơi quê hương gần như đã hết hy vọng! Không phải Ba không muốn tìm lại cội nguồn, bởi vì nhà nghèo quá, thêm việc nuôi chúng tôi ăn học nên không có tiền để tìm lại quê hương.
Ngày chị em tôi tốt nghiệp ra trường cũng là ngày Ba, Mẹ hạnh phúc nhất. Chúng tôi hẹn với lòng sẽ ra Huế tìm lại quê Nội thân yêu để làm món quà dâng tặng Ba. Đây cũng là nỗi lòng và nguyện vọng cuối đời của ba tôi. 
Đúng ngày 01 tháng 03 năm 2011, có lẽ nhờ ơn Chúa, em gái tôi làm bên hướng dẫn viên du lịch đã tìm gặp gia đình của Ba tôi ngoài Huế. Tin tức mà ba mươi bảy năm Ba và gia đình luôn mong đợi. Nó như sét đánh, làm gia đình tôi hết sức ngỡ ngàng và bàng hoàng. Không kiềm chế được mình, Ba tôi đã bật khóc khi nói chuyện với các em ruột của mình qua điện thoại. Nước mắt của niềm vui, nước mắt của hy vọng, nước mắt của đứa con phải cách xa gia đình trong một khoảng thời gian dài tuyệt vọng, nước mắt của đứa con tội lỗi phải để cho song thân luôn ngóng chờ, nước mắt của đứa con bất hiếu khi hay tin mẫu thân đã qua đời... cứ tuôn trào, tuôn trào! Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy Ba khóc và khóc nhiều như thế. Tôi thương Ba vô cùng!

5. Giải khuyến khích: “Nhớ Về Bố” của tác giả Maria Hoàng Thị Hồng Lam, bút hiệu Hoàng Lam


NHỚ VỀ BỐ


Thấm thoát đã bốn năm trôi, con vẫn chưa tin là Bố xa con. Bởi trong tiềm thức của con, hình ảnh Bố vẫn nguyên vẹn, Bố đang sống và dõi theo từng bước con đi. Vui với niềm vui của con và buồn với nỗi buồn của con. Con yêu Bố! Bố chính là người tuyệt vời nhất trên cõi đời này.
Mẹ mất khi con lên sáu. Thương đứa con thơ dại đã phải thiếu vắng tình mẫu tử, Bố đã bù đắp tình thương người Bố và Mẹ cho con. Con luôn tự hào về Bố. Là tổng giám đốc công ty, suốt ngày chỉ biết giấy tờ, sổ sách, máy móc… Thế nhưng, Mẹ mất, Bố đã phải “một vai hai gánh”, nhưng đã làm tốt hơn ai hết nhiệm vụ của mình mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ ở công ty. Con đã được đón nhận từ Bố tất cả tình thương và sự chăm sóc tận tình. Bố đã rất nhạy cảm với những thay đổi trong con dù rất nhỏ. Một tiếng ho, Bố biết con đang mệt. Một giọt nước mắt, Bố biết con đang buồn. Bố săn sóc con trong từng bữa ăn và giấc ngủ. Không những thế, Bố như là vị thần linh chữa trị căn bệnh tinh thần mỗi lúc con bất an. Ngày đó, con chưa cảm nhận được Bố đau lòng thế nào khi phải chấp nhận mất đi nửa bên kia đời mình. Con đã hỏi Bố: “Mẹ đi đâu lâu thế? Mẹ không về, con không ăn và ngủ đâu!” Bố động viên con, bế con trên tay như đứa trẻ lên ba, không trả lời, không trách mắng… Bố chỉ nói: “Rồi Mẹ sẽ về với Con!” 
Bốn anh em đang học. Các anh chị học xa nên ở trọ, con học gần nên ở nhà bới Bố. Bố thương chúng con lắm, đặc biệt là con! Ai cũng khen Bố là người cha tốt hiếm có. Tuy còn nhỏ, nhưng con cảm nhận được Bố hy sinh vì con nhiều lắm! Thế nhưng, Bố lại nói rằng chỉ mới được một phần thôi, Bố không thể bù đắp sự mất mát quá lớn của con. Bố làm việc cách nhà 75km, thế mà 3 giờ 30 Bố đã dậy chuẩn bị và gần 7 giờ tối Bố mới về. Lúc con thức dậy, mọi thứ đã đâu ra đấy: thức ăn, quần áo, sách vở, với một mảnh giấy nhỏ đầu gường: “Con gái ngoan của Bố, ăn cơm rồi đi học, tối Bố về với con!” Nhìn thấy Bố quá vất vả, nhiều người trong công ty khuyên Bố chuyển nhà đến gần công ty, nhưng Bố không đồng ý. Vì Bố không muốn xa căn nhà hạnh phúc của gia đình ta, và Bố còn phải thay Mẹ chăm sóc Ông Ngoại nữa. Thứ bảy và chủ nhật, Bố được nghỉ làm, nhưng Bố vẫn dậy sớm để dọn nhà và để có nhiều thời gian cho con, hai bố con đã đến thăm Ông và giúp Ông dọn nhà, ở lại ăn cơm để động viên Ông. Sau đó, câu quen thuộc mà hầu như tuần nào Bố cũng hỏi Con: “Con muốn đi đâu? Làm gì? Ăn gì?...” Con trả lời chỉ muốn ở bên Bố thôi, mắt Bố đỏ và ngân ngấn dòng lệ. Bố ôm con vào lòng và hôn con âu yếm. Dường như giọt nước mắt và nụ hôn của Bố, là khung trời tình thương bao phủ con, lòng con tràn ngập hạnh phúc. Con vui quá Bố ơi, phản ứng của con thật tự nhiên nhưng như có một sức mạnh vô hình nào thúc đẩy con, con ôm Bố chặt hơn và hôn mạnh lên gò má gầy của Bố.
Ngày tháng qua đi, Bố bận rộn với việc công. Con cũng gần như phủ kín thời gian bởi nhũng buổi học chính và ngoại khóa. Nhưng dù bận thế nào chăng nữa, Bố vẫn dành thời gian cho con, cho anh chị và làng xóm xung quanh. Vì ít có thời gian nên Bố đã nhờ cô giáo theo sát con hơn, những người xung quanh có thêm nhiệm vụ với con vì Bố nhờ. Với con, Bố mua sách tham khảo như: Những điều cần biết về tâm sinh lí, Kim chỉ nam cho học sinh… và động viên con đọc, Bố dành thời gian để tâm sự và lắng nghe con. Đáp lại những mong muốn của Bố, con đã cố gắng đọc sách và tập làm việc nhà. Bố ơi, hình ảnh Bố đang trong tim con, Bố chưa già mà tóc Bố bạc và sức khỏe giảm nhiều, bởi qua nhiều công việc Bố phải làm và nỗi lo Bố phải gánh. Hình như Bố sinh ra để làm việc và phục vụ chúng con. Từ khi Mẹ ngã bệnh đến khi Mẹ mất, ít khi con thấy Bố cười và có thời gian dành cho mình. Ngày Bố ốm, Bố không nằm mà vẫn đi làm, con thấy khuôn mặt Bố mệt mỏi, phờ phạc khác hẳn mọi ngày. Biết thế, nhưng con chưa làm gì để động viên, chăm sóc Bố. Bố không buồn con, mà vẫn một mực sống vì con, Bố đã cố gắng hết sức để con có được nụ cười và bằng bạn bè...
Ngày con đi học xa nhà, Bố đã chuẩn bị những thứ cần thiết và căn dặn con nhiều điều. Con nhớ mãi lời dặn: “Con ơi, nhớ giữ gìn sức khỏe, Bố sẽ rất nhớ con!” Lúc đó, con không dám nhìn thẳng vào mắt Bố. Ngày nào, Bố cũng gọi điện cho con, bởi trong Bố, con chưa đủ trưởng thành để Bố phó mặc tự con lo lấy. Cứ mỗi cuối tuần, tan học, con đã thấy Bố đến chờ con từ lúc nào để đón con về. Về đến nhà, Bố luôn nhắc nhở con vào chào Mẹ. Dường như từ món ăn cho đến câu chuyện, Bố cũng chuẩn bị để đem lại niềm vui cho con. Bố đã nuôi con lớn không chỉ bằng lương thực hằng ngày, mà bằng cả trái tim và sự hy sinh của Bố. Con cảm nhận được con là người hạnh phúc nhất trên đời vì con có Bố. Con đang tự tin để bước vào đời, sánh vai cùng bạn bè và chuẩn bị cho tương lai. 
Thế nhưng, niềm hạnh phúc mà con tưởng chừng như sẽ không bao giờ mất ấy, lại không được bao nhiêu! Khi mà năm mới đến gõ cửa mọi nhà, mọi người vui vẻ với tiếng nói cười rộn ràng, thì với con lại là điều kinh hoàng, khủng khiếp vì Bố đã không thức dậy như thường lệ. Con lay mạnh người Bố, thét lên, nước mắt giàn giụa… Nhưng tất cả đều vô vọng, Bố không mở mắt, không nói gì nữa. Bố ơi! Bố đã vĩnh viễn xa con lúc nào trong đêm mà con không biết. Con không tin và không muốn tin sự thật phũ phàng này. Trái đất ngừng xoay, mọi thứ sụp đổ tan tành, tim con đau nhói, chân tay run rẩy, miệng không gọi Bố nữa… Tỉnh dậy, con không tin những gì đang xảy ra trước mắt, một lần nữa con lại “lực bất tòng tâm” khi phải xa người thân. Con lại phủ lên đầu mình chiếc khăn trắng của sự tang thương. Con sợ màu trắng này lắm, Bố ơi!
Giờ đây, con đang bước đi trên con đường mà con đã chọn, nhưng không có Bố! Con muốn gửi tới Bố lời cảm ơn từ tận đáy lòng con: “Bố ơi, con yêu và nhớ Bố nhiều lắm, dù không có Bố hiện diện hữu hình bên con, nhưng Con tin ở phương trời xa Bố vẫn đang nhìn và bên con. Con sẽ cố gắng sống tốt để là con của Bố. Không ai sinh ra không bởi một người Bố! Con muốn gửi tới những ai đang còn Bố: Hãy cố gắng những gì có thể, hãy thực lòng yêu và kính trọng Bố… Để không như con, giờ con muốn làm một điều cho Bố cũng không thể, dù con muốn một giây bên Bố cũng không còn nữa. Con khao khát lắm nhưng giờ không thể, Bố ơi!”
Con của Bố, 

6. Giải khuyến khích: “Chút Hồi Ức Về Tuổi Thơ” của tác giả Maria Trương Thị Kim Thanh 


CHÚT HỒI ỨC VỀ TUỔI THƠ


Tôi lớn lên với đất quê ruộng vườn nên kỷ niệm tuổi thơ gắn liền với đồng lúa ngô khoai. Mái nhà tranh vách tre nằm bên con đường làng, cạnh luỹ tre xanh, dưới chân núi, nơi có con sông Bồ lượn quanh, là hình ảnh tôi dán trên những trang đầu của cuốn album cuộc đời. Bởi thế, nó chìm sâu trong tâm khảm tôi.
Những hình ảnh đó gợi lên trong tâm hồn tôi về một cuộc sống yên bình, dân dã tại chốn quê nhà. Thế nhưng, tuổi thơ của tôi đã đi qua có biết bao kỷ niệm không thể nào quên! Có khi là những kỷ niệm êm đẹp nhưng cũng có thể là những tháng ngày gian khổ.
Tôi không tài nào quên được vào năm tôi lên 3 tuổi. Năm ấy, nhà tôi bị cháy trụi…
Vào một buổi trưa mùa hè, nắng nóng, ba tôi đang thổi lửa nấu ăn trong bếp bằng lá bạc hà khô, những cơn gió Lào thổi liên tục mang theo hơi nóng đã làm cho bếp lửa cháy lên rừng rực. Không cản được sức gió, như được tiếp thêm dầu, lửa cứ thế bốc cháy lên cao và như bắt gặp được một “vùng đất màu mỡ”, đám lửa trong bếp đã thiêu trụi mái nhà tranh của gia đình tôi. Cũng từ đó, ba mẹ tôi tạm thời chia cách nhau để lo kiếm sống, nuôi con. Ba tôi mang theo tôi vào thành phố Huế sống, còn em gái tôi theo mẹ ở lại quê nhà, sống ở nhờ nhà bà ngoại tôi. 
Bây giờ, tôi ngẫm nghĩ lại những tháng ngày cùng với ba tôi bôn ba khắp vùng đất Cố Đô, tôi mới cảm thấy mình thật hạnh phúc vì đã được cùng với ba mình trải qua những ngày tháng vất vả gian khổ, mai đây mốt đó… Tối đâu cũng là nhà, ngả đâu cũng là giường.
Ba tôi xin được một việc làm tại nhà máy bia Huda Huế, ngày ngày đi làm ba tôi đều chở tôi ngồi sau chiếc xe đạp. Dù làm ở bất cứ nơi đâu, đi đến nơi nào, ba tôi đều đem tôi theo, như hình với bóng, chăm lo cho tôi từng li từng tí một như người mẹ thật thụ. Vì thế mà trong khoảng thời gian đó, tôi sống xa mẹ nhưng có lẽ ba tôi đã làm cho tôi vơi đi nỗi nhớ mẹ! Từ cái áo, cái quần tôi mặc, ba tôi đều chở tôi qua chợ Đông Ba để chọn lựa và mua. Rồi lo tắm rửa, giặc giũ cho tôi, ba tôi làm một cách kỹ lưỡng và thật chu đáo! Có thể nói trong khoảng thời gian đó, ba tôi dốc hết toàn tâm, toàn lực để lo làm việc và chăm sóc, yêu thương tôi rất nhiều.
Đặc biệt nhất, tôi không thể nào quên được những đêm phải cùng ba tôi ngủ ngoài đường phố, lúc thì đến hành lang nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Huế, có lúc lại ngủ trước cửa nhà thi đấu bên đường. Mặc cho gió lạnh, đêm khuya, ba tôi luôn cố gắng ru tôi giấc ngủ bằng những câu chuyện... Nhà ông bà nội tôi cũng ở Huế, nhưng tôi không hiểu tại sao ông bà tôi lại không đón nhận bố con tôi vào ở trong nhà, có thể vì lý do nào đó mà đến nay tôi vẫn không hiểu hết được. Mỗi đêm, ông bà nội tôi chỉ cho hai bố con tôi trải chiếu và treo mùng ngủ trước hiên nhà, đến sáng sớm lại phải thu dọn mùng màn để đi. Tôi nghĩ lúc đó mình còn nhỏ nên tôi sống quá hồn nhiên, vô tư không biết đến khó khăn là gì? Cũng không biết được ba tôi đã khổ đến chừng nào khi phải cảnh “gà trống nuôi con như vậy”. Ba tôi luôn tạo cho tôi niềm vui, được đầy đủ, vui chơi thoải mái để tôi bớt nhớ mẹ hơn và để ba tôi yên tâm làm việc. 
Cuối cùng, ba tôi cũng xin được trọ trong nhà của người khác, gần chỗ làm việc, nhưng cũng không có phòng ở riêng, chỉ xin trọ qua ban đêm thôi. Cả ngày ba tôi đi làm, đem theo tôi, ăn ngủ cả ngày ở nhà máy. Tối đến thì về chỗ trọ, lại phải ngủ ngoài hành lang. Có đêm, trời mưa to, chỗ ngủ bị dột nước, hai bố con phải thức giấc kéo giường xê dịch lui tới để tránh chỗ ướt. Thời gian cứ thế trôi qua… 
Khoảng ba tháng sau, mẹ tôi mang theo em gái tôi từ nhà quê lên thành phố để tìm hai cha con tôi và cùng trở lại quê nhà, làm lại một ngôi nhà mới thay ngôi nhà đã bị cháy và sống ở mảnh đất Sơn Quả đó cho đến hôm nay.
Thời gian trôi qua thật nhanh, tuổi thơ đã đi vào qua khứ của tôi nhưng đó là quãng thời gian mà tôi cảm thấy hạnh phúc nhất và sống mãi trong lòng tôi, khi tôi được cùng sát cánh bên ba mình trong cuộc sống. Tôi cũng cám ơn Chúa đã sắp đặt cho tôi cuộc sống như vậy, để tôi được lớn lên trong tình thương yêu của ba mình. 

III. Thể loại Video Clip/PowerPoint:

1. Giải Nhất: “Ba Ơi, Ba Là Tất Cả” của tác giả Maria Nguyễn Bảo Thư.

2. Giải Nhì: “Bàn Tay của Bố” của tác giả Lucia Nguyễn Quỳnh Như.

3. Giải khuyến khích: “Công Lao của Cha” của tác giả Tu sĩ Giuse Hoàng Đình Quang.

Nguồn: Vietcatholic